Nghĩ thêm từ “Mạ tui”

10:00 31/10/2018

NGUYỄN KHẮC PHÊ    

Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

Trong giáo giới và nhiều thế hệ học sinh, sinh viên - ít ra là ở Huế - Nguyễn Viết Kế là một tên tuổi được kính nể. Từ năm 1974, anh đã là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế; và 35 năm (1977 - 2012) anh là người thầy dạy văn được hàng chục ngàn học sinh trung học yêu mến, ngưỡng mộ - từ Pleiku Tây Nguyên xa ngái đến các trường Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ (Huế)… Hơn thế, thầy Kế là người có lắm… “tài”, hăng hái hoạt động đoàn thể, biểu diễn văn nghệ, nên có nhiều “fan”, đến mức học trò ở Tây Nguyên làm đám cưới, cũng mời bằng được thầy Kế vào “dẫn chương trình.” Trong Tự truyện, bên cạnh những “tổng kết” với rất nhiều thành tích về giáo dục, thầy đã dẫn chương trình trên 300 đám cưới!

Nhưng trong làng văn, NVAH thuộc hàng… “cây bút mới”, tuy anh đã xuất bản một số sách như “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” (sưu tầm - biên soạn, Nxb. Đà Nẵng, 1994), “Hướng dẫn sinh hoạt ngoài giờ” (Nxb. Thanh niên, 2001), “Luyện thi Tú tài Văn” (viết chung, Nxb. Thuận Hóa, 1996), “Nhịp chày thác nước” (Thơ in chung, Sở VHTT Gia Lai - Kontum, 1980). Với một cuộc đời phong phú như thế, nên Tự truyện tuy mang tên “Mạ tui”, nhưng ôm chứa rất nhiều số phận, nhiều điều gợi chúng ta suy ngẫm về thế sự, về đạo làm người.

1. Hiện đại chuyên chở “cổ tích”

Có lẽ cũng nên nói đôi điều về “xuất xứ” tác phẩm. Thiên hạ làm văn từ Fb không hiếm, nhưng tác phẩm văn học đầu tay của thầy giáo NVAH trước ngưỡng cửa “thất tuần” xuất hiện gần như 100% nhờ có Fb vẫn đáng gọi là độc đáo. Khi biết người mẹ sống thọ hơn một thế kỷ đang ở bên cửa tử, tác giả đã miệt mài qua 700 đêm, viết nên 100 số “Mạ tui” đưa lên Fb và đúng vào lễ Vu Lan báo hiếu PL 2562 - 2018, đồng thời là Lễ Tiểu tường (1 năm Mạ đi xa), cuốn sách “Mạ tui” được giới thiệu trân trọng với đông đảo độc giả ở Huế. Nhà văn Trần Thùy Mai - người cùng được đào luyện từ “lò” Đại học Sư phạm Huế trước 1975 như NVAH - trong lời “Tựa” cho tác phẩm đã viết: “Tự truyện Mạ tui này là một lăng mộ tinh thần vô giá mà NVAH dâng cho mẹ. Ít người con nào làm được như anh…”.

Ở một khía cạnh khác, qua trường hợp “Mạ tui”, chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn về Fb nói riêng và “mạng xã hội” nói chung. Đã từng có không ít chỉ trích Fb và mạng xã hội hay tung tin thất thiệt, nhảm nhí, gây “nhiễu” dư luận…; nhưng với “Mạ tui”, công nghệ hiện đại đã “chuyên chở” ngon lành những câu chuyện “cổ tích”, ít ra đã truyền đến hàng ngàn độc giả khắp mọi miền những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị tàn phá bởi lối sống đua chen chạy theo hưởng thụ vật chất. Với “Mạ tui”, chúng ta hiểu ra, Fb cũng như “mạng xã hội” và công nghiệp hiện đại không có “lỗi” gì. Vấn đề là con người sử dụng chúng phải có bản lĩnh, có cốt cách văn hóa…

2. Một con người bình thường vẫn chứa đựng một phần lịch sử

Sau khi đọc các hồi ký và tự truyện của Phan Thị Thu Quỳ (“Áo tím đồi sim”), Bảo Cường (“Sau một cuộc đời”), Trương Thị Thu Cúc (“Những người muôn năm cũ”), Song Cầm (“Cánh chim trong bão tố”), tôi đã nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Với “Mạ tui” của NVAH, một lần nữa, điều này được khẳng định. Tuy vậy, trong cuộc tọa đàm “Hồi ký - chuyện đời, chuyện người và trào lưu xã hội” do Sống - thương hiệu sách tác giả Việt của Alpha Books tổ chức hồi tháng 6 năm 2018 tại Hà Nội mà sau đó nhiều báo chí đưa tin, xem ra các diễn giả và dư luận chỉ chú ý đến tự truyện của người nổi tiếng, những người làm nghệ thuật trong showbiz... có nhiều độc giả nhưng cũng từng bị chỉ trích về tính chân thật và nhất là các tình tiết xúc phạm đến những người xung quanh. Những điều đó cũng như những cuộc tình “tay ba”, “tay tư” gây scandal là có thật, chủ yếu diễn ra trong giới nghệ sĩ, diễn viên; tự truyện của họ chủ yếu đáp ứng sở thích những kẻ tò mò hậu trường các “ngôi sao”, chứ không hẳn có giá trị về văn chương, càng không nêu được các vấn đề xã hội, lịch sử của đất nước.

Gần đây, chính một số hồi ký, tự truyện của những người chưa nổi tiếng, không thuộc giới “showbiz” lại đạt được những giá trị đó, tiêu biểu như “Lính bay” của Phạm Phú Thái (viết về các chiến sĩ không quân) và “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sĩ… Tôi không có ý so sánh “Mạ tui” với hai tác phẩm vừa dẫn, nhưng có thể gọi đây là “dòng” tự truyện viết từ lớp người “cơ sở”, nền tảng của xã hội (thời M. Gorki thì gọi là “Dưới đáy”) - những trang sách không nhiều “mầu mỡ” như của giới “showbiz”, cũng thiếu tầm “vĩ mô”, nhưng đầy ắp chi tiết chân thật của cuộc sống, của lịch sử.

Người mẹ trong “Mạ tui” là một con người bình thường - rất bình thường, chỉ có “chức vụ” duy nhất là mẹ của chín đứa con, suốt năm tháng chạy chợ “đầu tắt mặt tối, đòn gánh đè vai… bàn tay chai sạn, bàn chân nứt nẻ vì nắng mưa gió chướng”; vậy mà qua cuộc đời bà và những người con - kể cả mấy người “con-dâu-hụt” - cũng đều là người bình thường, chúng ta như được gặp lại, được sống lại những năm tháng đầy biến động của dân tộc. Nói cách khác, những con người bình thường trong “Mạ tui” vẫn chứa đựng một phần lịch sử.

Trong nhiều năm, dân tộc ta liên tục phải trải qua chiến tranh nên nói đến “lịch sử”, hầu như ai cũng nghĩ là phải có cảnh bom rơi đạn nổ, có các sự kiện đấu tranh; trong “Mạ tui” cũng có những điều đó (xin trình bày phần sau), nhưng “lịch sử” còn là việc gìn giữ nguồn cội, truyền thống văn hóa một vùng đất, nền nếp gia phong… Trong cuộc đấu tranh, người mẹ trong “Mạ tui” tưởng như bà ở ngoài dòng chảy lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ - ngoại trừ một lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bà phải ôm con đi sơ tán kèm với nắm rơm ủ ấm cho mấy mẹ con. Vậy nên “công lao” lớn nhất của bà trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc vừa qua là nuôi dưỡng, giáo dục đàn con, xây dựng một gia đình “ngũ đại đồng đường” theo khuôn phép của một “tín đồ Phật giáo thuần thành; từ nhỏ Mạ đã theo bà ngoại đi chùa làng An Hòa tụng kinh niệm Phật…. Đã thọ “thập thiện giới ăn chay một tháng mười ngày…”; nhờ đó, bà đã đưa gia đình vượt qua bao sóng gió, cùng tiến bước với xã hội cho đến ngày hôm nay. Đây là một sự nghiệp không thể xem thường, thậm chí là quan trọng, khi chúng ta nhận ra vấn đề giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp, khi không ít người “bất ngờ” thấy ra nhiều khía cạnh “tích cực” trong đời sống xã hội ở Lào và Miến Điện - hai nước xem đạo Phật như là “quốc giáo”...

Đọc mấy trang hồi ức của Nguyễn Viết Huy - cháu nội đích tôn của bà - viết ở phần cuối cuốn sách, nhắc lại những bài học về sự tiết kiệm, về sự nhường nhịn mà bà răn dạy con cháu hàng ngày, chúng ta càng thấy giá trị “công lao” của người mẹ bình thường ở làng An Hòa phía Bắc thành Huế vừa ra đi ở tuổi 104… xuân!

3. Chính trị, Tôn giáo, Tình yêu và số phận con người

Tự truyện của NVAH dành khá nhiều trang viết về những cuộc tình dang dở của mình khiến “Mạ tui” thêm sức cuốn hút bạn đọc. Nhà văn Trần Thùy Mai, trong lời “Tựa” có nhận xét: “Thật là “trong cái rủi có cái may”, sự lận đận tình duyên của anh, làm cho mẹ anh âu lo thấp thỏm suốt chục năm trời, nay lại trở thành kho vốn liếng để anh xây dựng nên hàng trăm trang viết hấp dẫn…”.

Điều tôi quan tâm hơn là các chuyện tình trắc trở của anh không phải để “câu khách”, càng không phải kiểu tình yêu chụp giật hay buông thả, chạy theo danh lợi của không ít người trong “giới showbiz” từng bị dư luận chỉ trích; tình yêu ngang trái của NVAH không thiếu vẻ đẹp mà chính tác giả gọi là “Mối tình thơ” và “Chuyện tình xuân”, nhưng rồi bất thành vì sự trớ trêu của số phận. Đó là một cách nói ngắn gọn thôi, còn những chuyện tình tan vỡ của NVAH không chỉ khiến người trong cuộc và bà mẹ già của anh buồn đau mà còn gợi chúng ta nghĩ đến bao điều về thân phận con người trước những đổi thay, về sự ràng buộc tình yêu đôi lứa vì tín ngưỡng tôn giáo… Đã có nhiều tác phẩm viết về sự cô đơn của con người trước những va đập của lịch sử; với các trường hợp của NVAH, chúng ta xót xa vì cảm thấy các “guồng máy” hầu như không chút bận tâm trước sự tổn thương, đổ vỡ của mỗi số phận; và trong hoàn cảnh đó, con người tỏ ra thật là yếu ớt. Các học trò yêu đã trách thầy Kế yếu đuối và chính tác giả cũng tự nhận mình không đủ mạnh mẽ để vượt qua trở lực. Nhưng có ai đó đã nói rằng vẻ đẹp thường yếu ớt (như một bông hoa hồng, một tiếng đàn thánh thót trong đêm…) rất dễ bị “tổn thương”; mà con người là một vẻ đẹp - tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa - con người đang sống như trong mơ với mối tình đẹp, càng dễ bị xiêu đổ. Giá như mọi người hiểu điều đó và biết quan tâm, biết gượng nhẹ khi buộc phải đụng chạm đến mỗi số phận con người!

Trên thế gian, không ít người chỉ một lần thất tình đã tìm đến cái chết, NVAH thì “quá tam ba bận” phải “giương cờ trắng” trong cuộc tìm con dâu cho mẹ. Lần đầu, với một nữ sinh Đồng Khánh, vào lúc “giao thời” của lịch sử Việt Nam: Năm 1974, chàng vay tiền mẹ nàng để tổ chức Đêm Sư phạm hàng năm vào dịp Tết, dự tính khi nhận học bổng sinh viên sẽ trả. Nhưng ai ngờ, sau 26/3/1975, “Huế giải phóng và… học bổng sinh viên cũng...” mất luôn. Ban Đại diện thì chỉ mình chàng ở lại Huế “chịu trận”. Thế là Mạ phải “bán gần hết tra lúa được chừng gần một cây vàng” cho con trả nợ. “Làm cái Ban đại diện chi cho khổ cả nhà rứa con ơi!... Trời ơi là trời, trời không có mắt!”

Quả là chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai? Biết trách ai bây chừ!

Lần thứ hai, với người đẹp làng Ngọc Anh (Phú Vang) mặc cho chàng “xách ba lô cơm đùm gạo bới… đi nhận nhiệm sở ở vùng đất bazan có cúc quỳ vàng”. Mối tình nồng thắm bất chấp khoảng cách không gian và không “môn đăng hộ đối” - nàng là Tôn Nữ (dòng dõi Tôn Thất), đặc biệt hơn nữa là thân phụ nàng đang phải “cải tạo” ở Bình Điền! Vậy mà đôi bên đã vượt qua bao nghi ngại, cho làm lễ ăn hỏi, nhưng sự đời, ai học hết chữ “ngờ”! Đúng lúc chàng và nàng tính ngày làm lễ cưới thì tin như “sét đánh ngang tai”: Chính quyền “quyết định trưng thu ngôi nhà, vườn tược... để lại căn bếp và 100 mét vuông cho gia đình, mẹ em đã ngất xỉu…”. Thế là tan nát một mối tình đẹp vì “với ba em, tui là “cán bộ Đoàn, người của cách mạng”... Ta đành phụ nhau em ơi!...”

Cũng chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai để phân giải được sự đúng - sai? Biết trách ai đã làm cho đôi trẻ khóc hết nước mắt vì biệt ly bây chừ!

NVAH thì hiểu nghĩa vụ người con trai độc nhất của mẹ, thấy mình có lỗi để mẹ già mãi mong chờ cô dâu hiền, nên dù đang đau đớn vì chia tay nàng Tôn Nữ làng Ngọc Anh đến mức mang bệnh dạ dày, chàng lại “dấn thân” vào cuộc tình lần thứ ba với cô y tá chăm sóc chàng tại bệnh viện. Cũng nhờ đám học trò xứ sở hoa quỳ vàng vun vô và nàng lại là người Huế lên xây dựng Tây Nguyên như chàng. Lo cho con đau ốm và chắc cũng nóng lòng muốn biết mặt con dâu tương lai, người mẹ già cùng bà chị NVAH, không quản đường xa còn đầy trắc trở hồi đó, bới đùm quà bánh lên Gia Lai. Bà chưa kịp mừng thấy cô y tá đẹp người tốt nết thì đã hoảng hồn khi biết cô theo đạo Thiên Chúa và đã ăn “bánh Thánh”. “Trong suy nghĩ rất đơn giản mà nghiệt ngã của Mạ tui, không thể có chuyện kết hôn với người ngoại đạo. Bởi vì Mạ sợ lấy vợ, lấy chồng như thế là bỏ đạo luôn”. Thế là chuyện tình đẹp với Thánh nữ miền cao nguyên tan vỡ ngay sau “Đêm Thánh vô cùng” mùa Giáng sinh năm đó!...

Lại chỉ còn biết kêu… trời, chứ biết hỏi ai, rằng Đạo nào cũng dạy con người điều thiện mà sao nỡ chia lìa đôi lứa đang yêu? Và biết trách ai bây chừ!

NVAH còn “trắng tay” trong cuộc tình lần thứ 4 với nàng “Radio” xinh đẹp, ngâm thơ hay trên Đài Phát thanh Gia Lai. Mà đâu chỉ NVAH, trong “Mạ tui” còn có một số nhân vật chịu đựng mất mát, bất hạnh vì thời cuộc đảo lộn khiến người đọc không khỏi xót xa. Như người chị của tác giả, “mồng 4 Tết Mậu Thân 1968, chồng chị là lính “Xây dựng nông thôn” chế độ miền Nam về nghỉ Tết, sau đó thì đi tải thương cho bộ đội…” rồi mất tích; chị mòn mỏi chờ đợi suốt gần 50 năm, ở vậy nuôi hai cháu khôn lớn và chăm sóc mẹ già… Cặp đôi “thầy trò lớp Toán” cũng có cuộc tình thật đẹp trên đất cao nguyên, nhưng rồi thầy theo gia đình vượt biên, trò mỏi mắt chờ đợi mãi, rồi cũng phải “chọn lấy một trong những người đàn ông theo mình bấy lâu làm chồng dù nàng không yêu. Trái tim nàng rớm máu…”. Gần 40 năm sau, họ tình cờ “gặp lại nhau trong một quán cà phê nổi tiếng giữa phố núi mù sương… trong tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh “Còn chút gì để nhớ, để quên”…”.

Nhưng thôi, chỉ 3 cuộc NVAH “lỡ đò” cũng đủ để chúng ta phải suy ngẫm về những bất trắc và sự “vô thường” trên đường đời không phải lúc nào cũng êm đẹp. Một tác phẩm đầu tay, đặt được vấn đề như “Mạ tui” khiến người đọc phải 3 lần “chỉ còn biết kêu… Trời”, là một thành công không nhỏ của NVAH.

*

Còn có thể nêu ra một số điều đáng chú ý trong “Mạ tui”, như cách sử dụng tiếng địa phương khá “đậm đặc”, nhưng không làm độc giả khó hiểu mà lại tạo được “không khí” Huế rõ nét; về kết cấu truyện, Trần Thùy Mai khen tác giả “sáng tạo khi thỉnh thoảng lại cắt lớp thời gian, kéo người đọc về thời hiện tại”, nhưng thực ra, đây là thủ pháp nhiều cây bút đã thực hiện rất giỏi; còn cách “xen kẽ” chuyện “xưa - nay” của NVAH có chỗ chưa… khéo, hơi “xôi - đỗ”, mặc dù trong các “lát cắt” đan xen có những “màn” thú vị như cuộc gặp thầy trò “Có thể nào quên” tại Pleiku sau gần 30 năm xa cách, với chuyến bay trở lại Huế có thể là “độc nhất vô nhị” bằng chuyên cơ H.344 của người học sinh cũ đã thành nhân vật nổi tiếng Bầu Đức (“sếp” Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai) do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái!…

Cuộc đời vốn bất toàn, sao có thể đòi hỏi sự toàn bích của một tác phẩm đầu tay, lại sinh thành từ những trang Fb, nhất là khi tác giả phải chạy đua với thời gian để có sách kịp ra vào ngày giỗ đầu của mẹ - mùa Vu Lan báo hiếu. Được biết thành công của NVAH đã đưa “Mạ tui” vượt không - thời gian, đến với nhiều độc giả ở xa Huế và tác giả đã phải “nối bản”. Thật vui khi sách ra mùa Vu Lan được đọc cả… bốn mùa!

Hy vọng sau thành công này, NVAH với sự từng trải trên đường đời sẽ tiếp tục đi xa trên đường văn.

N.K.P
(TCSH356/10-2018)

...............................
Tự truyện Mạ tui của Nguyễn Viết An Hòa, Nxb. Thuận Hóa, 2018.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.