Nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ trong phóng sự 1932 - 1945

09:46 16/07/2009
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

Vũ Trọng Phụng qua nét vẽ của Côn Sinh - Ảnh: wikimedia.org

a) Nghệ thuật châm biếm:

Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay khác trong xã hội. Thủ pháp nghệ thuật này đã có truyền thống trong văn học và được các tác giả Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Hoàng Đạo... sử dụng khá đắc địa trong các tác phẩm của mình nhằm đả kích thói khoe khoang, nịnh hót và nạn tham những của bọn quan lại triều đình và bọn lý trưởng, lý địch ở chốn hương thôn.

Trong tác phẩm Lọng cụt cán, tác giả đã lấy ý tưởng từ một hiện tượng xã hội đang rộ lên lúc bấy giờ là các bà trưởng giả ở Hà Nội đang quan tâm đến một vấn đề: “Phụ nữ nên dùng giày hay dép để đi lượn?”, tác giả đã đả kích thói nịnh hót, xun xoe cấp trên một cách nhục nhã của bọn quan lại trong triều đình Huế. Sau khi nêu lên hai ví dụ điển hình về hai người là cụ Hội Quang, một người ăn chơi sành điệu đã từng được vào bệ kiến tại đền Paginies để “bái yết long nhan Nam Phương Hoàng Hậu” và đã “rập đầu ba cái trước bệ Rồng”, mũi cả cụ Hội Quang đã “dính vào mũi giày của Ngài” nên “không là gì đôi giày của Ngài Nam Phương”. Người thứ hai là ông Nguyễn Tiến Lãng, ty trưởng phòng Báo giới của triều đình Huế, người vẫn được theo sau Hoàng Hậu luôn và “đã từng được cái vinh hạnh kính cẩn cúi nhặt chiếc giày của Nam Phương Hoàng Hậu bị tụt ra ngoài gót ngọc”. Cuối cùng tác giả kết luận: “Các bà các cô hiện nay vẫn đi cả giày lẫn dép mà cũng chưa phân biệt thế nào là nền, là đẹp trong khi chờ thư của ông Nguyễn Tiến Lãng - người đã được cái hân hạnh nhặt giày cho Nam Phương Hoàng Hậu - trả lời cụ Hội Quang - người đã hân hạnh được ngửi mũi giày của Hoàng Hậu Nam Phương”.

Khác với lối chửi cạnh khoé của Tam Lang, Trọng Lang trong tác phẩm Làm dân lại không ngần ngại mà nói thẳng toẹt ra về nạn ăn hối lộ một cách trắng trợn của các “cụ lớn”: “Lại còn cái này nữa. Tôi muốn nói cái bằng như cái bằng cửu phẩm bá hộ chẳng hạn. Ông được giấy lên tỉnh lĩnh. Thoạt đầu, tay không! Mời ông đi ra, cụ lớn còn bận! Nếu ông khôn ra để mà hiểu, thì chiều đến ông khệ nệ bưng độ hai chai sâm banh vào gãi tai hai cái: “Dạ! Vi thiềng”. Cụ lớn sẽ giật mình, so vai mà nói thật nhanh: “Ồ, này lạ! Tôi chưa ký, à thầy? Nào bằng đâu, để tôi ký. Tôi ký ngay bây giờ cho thầy!”.

Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo là một tập phóng sự về toà án. Bằng giọng văn hài hước, châm biếm nhẹ nhàng, tác giả đã vạch trần bộ mặt thật của luật pháp. Toà án là cán cân của công lý nhưng nó luôn có “con cưng, con ghét”. “Con cưng” là những kẻ có thế lực, có nhiều tiền, còn “con ghét” tất nhiên là những kẻ nghèo hèn, không một xu dính túi. Có những người bị khép vào tội “du đãng” và bị phạt tù vì trong túi “chỉ có 6 xu”, nhưng luật pháp lại quy định “phải từ 7 xu trở lên mới không là du đãng”. Có những phiên toà mà bản án những được tuyên lên khiến người ta nực cười: Một người nghèo không có đủ tiền nuôi con, phải đem con đi bán, bị phạt tù 6 tháng. Còn kẻ mua đứa bé để kinh doanh thì sau phiên toà vẫn tươi cười vì “vốn liếng chưa đến nỗi đi đời nhà ma”; một người khác bị phạt 15 ngày tù và phải lạy chị dâu để xin lỗi vì đã “dám vào lễ mẹ trước anh trai là Phó Tổng thôn”.

Ngô Tất Tố là một nhà nho nhưng ngòi bút châm biếm của ông vừa có nét sắc sảo của một nhà báo có kiến thức Tây học vừa có cái thâm trầm của một nhà nho. Hình ảnh của nền văn minh vật chất ở Việt Nam đã được ông minh chứng không phải bằng sự giàu có của người dân mà bằng sự phát triển đến chóng mặt của bệnh “tim la” (giang mai): “Trong khoảng hơn ba chục năm, người có bệnh tim la đã đi từ chỗ yêu ma quỉ quái đến chỗ phổ thông, nước mình thật đã tiến một bước khá dài vậy” (Thằng tim la - mấy chấm nhỏ của thời đại vừa qua). Trong thiên phóng sự Việc làng, tác giả cũng vạch trần bộ mặt tham lam của bọn chức sắc ở chốn hương thôn qua việc miêu tả một cách hài hước cuộc hỗn chiến dữ dội để tranh nhau ngôi chủ tế và cái lăm lợn “Ồ lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mũ nhiễu hoa bạc... Trên bãi chiến trường còn lại một tuần đinh với một đám độ hơn 10 người hầu hết mặc áo thụng. Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi đánh nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ?” (Cái lăm lợn).

Khác với Ngô Tất Tố, nghệ thuật châm biếm của Vũ Trọng Phụng lại không phải là lối miêu tả trực diện. Tiếng cười của ông toát ra từ những tình huống đầy chất bi hài. Ở thiên phóng sự “Cuốn tiểu thuyết của con sen Đũi”, tác giả miêu tả một cô bé 13 tuổi tên là Đũi, con một ông lý trưởng trong làng. Nạn hủ tục ở chốn thôn quê đã làm của cải trong nhà Đũi đội nón ra đi. Ra thành phố Đũi phải làm con sen và bị một “thằng oằn” “hiếp lấy hiếp để. Sau cuộc hiếp dâm ấy, Đũi không còn cách gì cho thân phận mình được sung sướng hơn là “mong muốn được trở thành một cô đầu” - một sự mong muốn đến nực cười. Nhưng đáng nực cười hơn (và cả chua xót nữa) khi ta nghe tiếp tác giả hạ một lời cảm thán: “Ôi! Cái sức ám thị của một cuộc hiếp dâm! Sau này nếu cái Đũi sẽ nên bà, dễ thường nó phải đi cảm ơn cái thằng oằn đã hiếp nó”! Một cô bé 13 tuổi ngây thơ, trong trắng đã bị một thằng oằn lấy đi mất đời con gái, tương lai của cô sẽ là một cô đầu, thế mà cô bé ấy lại phải cảm ơn tên “oằn” kia. Sự ngược đời đến vô lý này là một thực trạng xã hội mà Vũ Trọng Phụng đã không ngần ngại phanh phui. Ngòi bút châm biếm thâm thuý, sâu cay của Tam Lang, Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Hoàng Đạo... đã lên án bọn quan lại gian tham, cảm thông với những con người nghèo hèn phải chịu bao nỗi bất hạnh đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc cho các thiên phóng sự.

b) Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ:

Ngôn ngữ trong một tác phẩm văn học là những ký hiệu nghệ thuật vừa thể hiện tài năng, phong cách của nhà văn, vừa tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm. Ngoài nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật châm biếm, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cũng là một nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên hấp dẫn của phóng sự Việt Nam 1932-1945.

Đọc hàng loạt thiên phóng sự, trước hết ta thấy các tác giả rất có ý thức trong việc dùng ngôn ngữ sao cho thật gây ấn tượng. Ngay từ cách đặt các tiêu đề của các thiên phóng sự, từ ngữ đã gây tò mò và kích động trực tiếp vào trí não độc giả: Loài động vật ngắn cổ, Mồ hôi và mồ hôi, Mùa gặt của hương lý, Một thiên kết luận đẫm máu... (Túp lều nát - Nguyễn Trần Ai), Đền con, Từ miếng thịt đến công lý. Tội ác, Vì chẳng tội gì, Giá của những bằng cấp, “Ăn” trên thây ma, Một con mắt gặp một con vắt (Làm dân - Trọng Lang), Ông quân sư của bạc bịp, Đố anh nào bịt được mắt ta, Xưởng chế tạo khí giới (Cạm bẫy người - Vũ Trọng Phụng), Hối hận, Chỉ vì con chó săn, Ông lang Tây trái phép, Nhẫn nhục, Bộ râu dài... Lạy chị em chừa, May cho lũ ăn mày... (Trước vành móng ngựa), Nụ cười thâm, Cái cọc bất nhân, Hối lộ thánh. Ngoài ra, các tác giả phóng sự cũng chú ý đến việc sử dụng đan xen nhiều dạng thức ngôn ngữ: ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ nghề nghiệp, ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, đanh thép, giàu thông tin và ngôn ngữ văn chương giàu hình ảnh.

Ở lớp ngôn ngữ đời thường, một đặc điểm dễ nhận thấy là dù các tác giả đã chú ý sử dụng rất nhiều các lớp từ mang đậm yếu tố dân gian như các thành ngữ, tục ngữ: “nước chảy chỗ trũng”, “mất tiền mua mâm phải đâm cho thủng”, “dầu mưa dãi nắng”, “tình ngay lý gian”, “năm cha ba mẹ”, “gà què ăn quẩn cối xay”, “đâm bị thóc chọc bị gạo”, “tuỳ cơ ứng biến”, “bán trời không văn tự”, “bắt được quả tang”... Thử làm một thống kê nhỏ ta thấy trong Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng trong khoảng 300 trang sách số lượng thành ngữ sử dụng là 62, số lượng tục ngữ là 2; ở Kỹ nghệ lấy Tây số lượng thành ngữ tục ngữ là 36/2/800 trang; ở Lục xì là 10/2/180 trang; ở Tôi kéo xe của Tam Lang 12/1/150 trang; ở Việc làng 20/1/100 trang; ở Làm dân của Trọng Lang là 30/2/100 trang. Thành ngữ, tục ngữ là lối văn mang tính khái quát cao. Việc sử dụng các thành ngữ và tục ngữ không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm của câu văn mà còn có tác dụng lột tả hết bản chất của đối tượng được miêu tả, làm cho người đọc hiểu đến tận ngọn nguồn của nó.

Trong khi sử dụng ngôn ngữ đời thường, các tác giả phóng sự cũng rất chú ý sử dụng các lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật. Có lời nói mộc mạc đầy vẻ cầu cứu của cô bé nhà quê ra thành thị đi làm thuê để kiếm miếng ăn: “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh chửi mình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xong việc này, người khác đã lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ” (Cơm thầy cơm cô - Vũ Trọng Phụng).

Có ngôn ngữ của bọn du thủ, du thực “Phải chưa ăn cắp nhưng lúc này đã nhờ nhẹ của một bà đi chợ mua hoa một chục bánh ga tô đem ra xó chợ chia nhau ngốn lấy ngốn để” (Trong làng chạy - Trọng Lang).

Có khẩu ngữ nhuốm màu thị thành của những me Tây đã già đời trong nghề: “Việc gì mà sợ? Có đánh chết cái ba vạn? Bọn họ toàn một thứ tính mềm nắn rắn buông mà thôi. Trừ phi bắt được quả tang ngủ với giai hãy chịu, chứ đường đường chính chính ra, mình phải mà họ trái, thì... chửi thì chửi trả, đánh cũng đánh trả. Các cô có biết gái này thế nào không? Đã có lần bị đấm một cái mà tát lại được ba cái đấy. Giơ dao lên dọa, gái này cũng tốc phăng ngay cái coóc xê lên. Anh nào cũng phải gờm! (Kỹ nghệ lấy Tây - Vũ Trọng Phụng).

Ngôn ngữ của một mụ cai xe mắng chửi phu xe khi anh ta thiếu tiền thuế, cũng là thứ ngôn ngữ rất đặc trưng: “Mai mấy kia cái gì! Ao nó đâu, bắt lấy!... Mày thiếu tiền thuế còn bướng phải không? Nó nỏ mồm, đánh bỏ mẹ nó đi cho bà... quai thêm cho nó mấy cái. Mày nắn lưng nó cho bà. Bà đánh cho mày biết, từ rầy thì chừa thói ăn gian... (Tôi kéo xe - Tam Lang).

Bên cạnh ngôn ngữ thường ngày, ngôn ngữ nghề nghiệp - một thứ ngôn ngữ đặc trưng cũng được các tác giả phóng sự sử dụng khá thành công trong các phóng sự. Trong Cạm bẫy người các tiếng lóng của bọn cờ bạc như chếch, giát, mòng, quých, thiếc... Tiếng lóng của bọn ăn cắp như hiếc (lấy), khai (rạch túi), nẩy (cắt khuy, moi cá (móc ví), viết bút (rạch túi bằng dao) bơm giàng, bờm sách (bắt gà, bắt chó) trong tác phẩm Trong làng chạy, cũng được Vũ Trọng Phụng và Tam Lang sử dụng khá nhuần nhuyễn.

Việc sử dụng các loại khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật cũng như ngôn ngữ nghề nghiệp không chỉ chứng tỏ sự am hiểu kỹ lưỡng của các tác giả đối với từng đối tượng được miêu tả mà còn góp phần đắc lực trong việc cá tính hoá ngôn ngữ nhân vật.

Ngoài ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ miêu tả cũng được các tác giả phóng sự quan tâm và thể hiện rất hiệu quả. Nhiều thiên phóng sự lôi cuốn được bạn đọc chính là ở sự kết hợp tinh xảo giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ tiểu thuyết giàu hình ảnh. Đây là cảnh Yến Đình miêu tả một canh bạc; “Năm sáu cánh tay khua động. Năm sáu bàn tay vồ nhau, chộp nhau, tranh nhau chặn lấy đồng hào. Mấy cái đầu bù chạm nhau công cốc. Cái chiếu xô lệch. Những quân bài tổ tôm văng tứ tung. Và tiếng cười ròn tan. Và tiếng kêu hỗn độn”. (Thanh niên trụy lạc. Đây nữa hình ảnh những chú bé đói ăn: “chúng nhướng lông mày lên, chớp mắt rất thong thả, rồi thở dài. Chỉ trong một giây đồng hồ, cái đói âm thầm diễn ra dưới những nét mặt đau đớn, ngây thơ” (Trong làng chạy - Tam Lang). Với những hình ảnh miêu tả trên, bạn đọc như tự hỏi: không biết mình đang đọc một thiên phóng sự hay đang xem một thước phim cận cảnh? Trong phóng sự Thanh niên trụy lạc, hình ảnh một người con gái đi bán mình trong đêm tối cũng được Yến Đình miêu tả vừa chua xót, vừa lãng mạn: “Một cơn gió thổi mạnh. Một chiếc lá ném xuống con đường xi măng bóng nhoáng. Chiếc lá xoay mấy vòng, lăn lăn trên đường rồi đuổi theo bóng người con gái nhoà dần trong đêm tối”. Một làng quê qua ngôn ngữ miêu tả của Trọng Lang thê lương mà vẫn có chút gì đó thi vị: “Trong một rừng tre, làng của Loan nhỏ như cái xóm. Nhà của Loan lại nhỏ quá, trong cái đã nhỏ rồi. Nó như cái nấm, ẩm thấp, đầy rêu phủ. Con chó cũng vậy, già ghê người, lê thê một giãy vú gần chạm đất. Cả đến ông cụ đẻ ra Loan, già và yếu đến thũng quần áo xuống” (Tết trong lòng người ta). Cách sử dụng ngôn ngữ đầy gợi cảm và giàu chất tạo hình trên ta còn gặp rất nhiều trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Trần Ai, Thạch Lam, Nguyễn Tuân... Với cách sử dụng ngôn ngữ này, nghệ thuật miêu tả trong các tác phẩm, phóng sự đã đạt đến mức hoàn hảo và cho đến hôm nay nó vẫn là những mẫu mực.

L.D.T
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.