Nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ trong phóng sự 1932 - 1945

09:46 16/07/2009
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

Vũ Trọng Phụng qua nét vẽ của Côn Sinh - Ảnh: wikimedia.org

a) Nghệ thuật châm biếm:

Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay khác trong xã hội. Thủ pháp nghệ thuật này đã có truyền thống trong văn học và được các tác giả Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Hoàng Đạo... sử dụng khá đắc địa trong các tác phẩm của mình nhằm đả kích thói khoe khoang, nịnh hót và nạn tham những của bọn quan lại triều đình và bọn lý trưởng, lý địch ở chốn hương thôn.

Trong tác phẩm Lọng cụt cán, tác giả đã lấy ý tưởng từ một hiện tượng xã hội đang rộ lên lúc bấy giờ là các bà trưởng giả ở Hà Nội đang quan tâm đến một vấn đề: “Phụ nữ nên dùng giày hay dép để đi lượn?”, tác giả đã đả kích thói nịnh hót, xun xoe cấp trên một cách nhục nhã của bọn quan lại trong triều đình Huế. Sau khi nêu lên hai ví dụ điển hình về hai người là cụ Hội Quang, một người ăn chơi sành điệu đã từng được vào bệ kiến tại đền Paginies để “bái yết long nhan Nam Phương Hoàng Hậu” và đã “rập đầu ba cái trước bệ Rồng”, mũi cả cụ Hội Quang đã “dính vào mũi giày của Ngài” nên “không là gì đôi giày của Ngài Nam Phương”. Người thứ hai là ông Nguyễn Tiến Lãng, ty trưởng phòng Báo giới của triều đình Huế, người vẫn được theo sau Hoàng Hậu luôn và “đã từng được cái vinh hạnh kính cẩn cúi nhặt chiếc giày của Nam Phương Hoàng Hậu bị tụt ra ngoài gót ngọc”. Cuối cùng tác giả kết luận: “Các bà các cô hiện nay vẫn đi cả giày lẫn dép mà cũng chưa phân biệt thế nào là nền, là đẹp trong khi chờ thư của ông Nguyễn Tiến Lãng - người đã được cái hân hạnh nhặt giày cho Nam Phương Hoàng Hậu - trả lời cụ Hội Quang - người đã hân hạnh được ngửi mũi giày của Hoàng Hậu Nam Phương”.

Khác với lối chửi cạnh khoé của Tam Lang, Trọng Lang trong tác phẩm Làm dân lại không ngần ngại mà nói thẳng toẹt ra về nạn ăn hối lộ một cách trắng trợn của các “cụ lớn”: “Lại còn cái này nữa. Tôi muốn nói cái bằng như cái bằng cửu phẩm bá hộ chẳng hạn. Ông được giấy lên tỉnh lĩnh. Thoạt đầu, tay không! Mời ông đi ra, cụ lớn còn bận! Nếu ông khôn ra để mà hiểu, thì chiều đến ông khệ nệ bưng độ hai chai sâm banh vào gãi tai hai cái: “Dạ! Vi thiềng”. Cụ lớn sẽ giật mình, so vai mà nói thật nhanh: “Ồ, này lạ! Tôi chưa ký, à thầy? Nào bằng đâu, để tôi ký. Tôi ký ngay bây giờ cho thầy!”.

Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo là một tập phóng sự về toà án. Bằng giọng văn hài hước, châm biếm nhẹ nhàng, tác giả đã vạch trần bộ mặt thật của luật pháp. Toà án là cán cân của công lý nhưng nó luôn có “con cưng, con ghét”. “Con cưng” là những kẻ có thế lực, có nhiều tiền, còn “con ghét” tất nhiên là những kẻ nghèo hèn, không một xu dính túi. Có những người bị khép vào tội “du đãng” và bị phạt tù vì trong túi “chỉ có 6 xu”, nhưng luật pháp lại quy định “phải từ 7 xu trở lên mới không là du đãng”. Có những phiên toà mà bản án những được tuyên lên khiến người ta nực cười: Một người nghèo không có đủ tiền nuôi con, phải đem con đi bán, bị phạt tù 6 tháng. Còn kẻ mua đứa bé để kinh doanh thì sau phiên toà vẫn tươi cười vì “vốn liếng chưa đến nỗi đi đời nhà ma”; một người khác bị phạt 15 ngày tù và phải lạy chị dâu để xin lỗi vì đã “dám vào lễ mẹ trước anh trai là Phó Tổng thôn”.

Ngô Tất Tố là một nhà nho nhưng ngòi bút châm biếm của ông vừa có nét sắc sảo của một nhà báo có kiến thức Tây học vừa có cái thâm trầm của một nhà nho. Hình ảnh của nền văn minh vật chất ở Việt Nam đã được ông minh chứng không phải bằng sự giàu có của người dân mà bằng sự phát triển đến chóng mặt của bệnh “tim la” (giang mai): “Trong khoảng hơn ba chục năm, người có bệnh tim la đã đi từ chỗ yêu ma quỉ quái đến chỗ phổ thông, nước mình thật đã tiến một bước khá dài vậy” (Thằng tim la - mấy chấm nhỏ của thời đại vừa qua). Trong thiên phóng sự Việc làng, tác giả cũng vạch trần bộ mặt tham lam của bọn chức sắc ở chốn hương thôn qua việc miêu tả một cách hài hước cuộc hỗn chiến dữ dội để tranh nhau ngôi chủ tế và cái lăm lợn “Ồ lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mũ nhiễu hoa bạc... Trên bãi chiến trường còn lại một tuần đinh với một đám độ hơn 10 người hầu hết mặc áo thụng. Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi đánh nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ?” (Cái lăm lợn).

Khác với Ngô Tất Tố, nghệ thuật châm biếm của Vũ Trọng Phụng lại không phải là lối miêu tả trực diện. Tiếng cười của ông toát ra từ những tình huống đầy chất bi hài. Ở thiên phóng sự “Cuốn tiểu thuyết của con sen Đũi”, tác giả miêu tả một cô bé 13 tuổi tên là Đũi, con một ông lý trưởng trong làng. Nạn hủ tục ở chốn thôn quê đã làm của cải trong nhà Đũi đội nón ra đi. Ra thành phố Đũi phải làm con sen và bị một “thằng oằn” “hiếp lấy hiếp để. Sau cuộc hiếp dâm ấy, Đũi không còn cách gì cho thân phận mình được sung sướng hơn là “mong muốn được trở thành một cô đầu” - một sự mong muốn đến nực cười. Nhưng đáng nực cười hơn (và cả chua xót nữa) khi ta nghe tiếp tác giả hạ một lời cảm thán: “Ôi! Cái sức ám thị của một cuộc hiếp dâm! Sau này nếu cái Đũi sẽ nên bà, dễ thường nó phải đi cảm ơn cái thằng oằn đã hiếp nó”! Một cô bé 13 tuổi ngây thơ, trong trắng đã bị một thằng oằn lấy đi mất đời con gái, tương lai của cô sẽ là một cô đầu, thế mà cô bé ấy lại phải cảm ơn tên “oằn” kia. Sự ngược đời đến vô lý này là một thực trạng xã hội mà Vũ Trọng Phụng đã không ngần ngại phanh phui. Ngòi bút châm biếm thâm thuý, sâu cay của Tam Lang, Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Hoàng Đạo... đã lên án bọn quan lại gian tham, cảm thông với những con người nghèo hèn phải chịu bao nỗi bất hạnh đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc cho các thiên phóng sự.

b) Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ:

Ngôn ngữ trong một tác phẩm văn học là những ký hiệu nghệ thuật vừa thể hiện tài năng, phong cách của nhà văn, vừa tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm. Ngoài nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật châm biếm, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cũng là một nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên hấp dẫn của phóng sự Việt Nam 1932-1945.

Đọc hàng loạt thiên phóng sự, trước hết ta thấy các tác giả rất có ý thức trong việc dùng ngôn ngữ sao cho thật gây ấn tượng. Ngay từ cách đặt các tiêu đề của các thiên phóng sự, từ ngữ đã gây tò mò và kích động trực tiếp vào trí não độc giả: Loài động vật ngắn cổ, Mồ hôi và mồ hôi, Mùa gặt của hương lý, Một thiên kết luận đẫm máu... (Túp lều nát - Nguyễn Trần Ai), Đền con, Từ miếng thịt đến công lý. Tội ác, Vì chẳng tội gì, Giá của những bằng cấp, “Ăn” trên thây ma, Một con mắt gặp một con vắt (Làm dân - Trọng Lang), Ông quân sư của bạc bịp, Đố anh nào bịt được mắt ta, Xưởng chế tạo khí giới (Cạm bẫy người - Vũ Trọng Phụng), Hối hận, Chỉ vì con chó săn, Ông lang Tây trái phép, Nhẫn nhục, Bộ râu dài... Lạy chị em chừa, May cho lũ ăn mày... (Trước vành móng ngựa), Nụ cười thâm, Cái cọc bất nhân, Hối lộ thánh. Ngoài ra, các tác giả phóng sự cũng chú ý đến việc sử dụng đan xen nhiều dạng thức ngôn ngữ: ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ nghề nghiệp, ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, đanh thép, giàu thông tin và ngôn ngữ văn chương giàu hình ảnh.

Ở lớp ngôn ngữ đời thường, một đặc điểm dễ nhận thấy là dù các tác giả đã chú ý sử dụng rất nhiều các lớp từ mang đậm yếu tố dân gian như các thành ngữ, tục ngữ: “nước chảy chỗ trũng”, “mất tiền mua mâm phải đâm cho thủng”, “dầu mưa dãi nắng”, “tình ngay lý gian”, “năm cha ba mẹ”, “gà què ăn quẩn cối xay”, “đâm bị thóc chọc bị gạo”, “tuỳ cơ ứng biến”, “bán trời không văn tự”, “bắt được quả tang”... Thử làm một thống kê nhỏ ta thấy trong Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng trong khoảng 300 trang sách số lượng thành ngữ sử dụng là 62, số lượng tục ngữ là 2; ở Kỹ nghệ lấy Tây số lượng thành ngữ tục ngữ là 36/2/800 trang; ở Lục xì là 10/2/180 trang; ở Tôi kéo xe của Tam Lang 12/1/150 trang; ở Việc làng 20/1/100 trang; ở Làm dân của Trọng Lang là 30/2/100 trang. Thành ngữ, tục ngữ là lối văn mang tính khái quát cao. Việc sử dụng các thành ngữ và tục ngữ không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm của câu văn mà còn có tác dụng lột tả hết bản chất của đối tượng được miêu tả, làm cho người đọc hiểu đến tận ngọn nguồn của nó.

Trong khi sử dụng ngôn ngữ đời thường, các tác giả phóng sự cũng rất chú ý sử dụng các lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật. Có lời nói mộc mạc đầy vẻ cầu cứu của cô bé nhà quê ra thành thị đi làm thuê để kiếm miếng ăn: “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh chửi mình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xong việc này, người khác đã lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ” (Cơm thầy cơm cô - Vũ Trọng Phụng).

Có ngôn ngữ của bọn du thủ, du thực “Phải chưa ăn cắp nhưng lúc này đã nhờ nhẹ của một bà đi chợ mua hoa một chục bánh ga tô đem ra xó chợ chia nhau ngốn lấy ngốn để” (Trong làng chạy - Trọng Lang).

Có khẩu ngữ nhuốm màu thị thành của những me Tây đã già đời trong nghề: “Việc gì mà sợ? Có đánh chết cái ba vạn? Bọn họ toàn một thứ tính mềm nắn rắn buông mà thôi. Trừ phi bắt được quả tang ngủ với giai hãy chịu, chứ đường đường chính chính ra, mình phải mà họ trái, thì... chửi thì chửi trả, đánh cũng đánh trả. Các cô có biết gái này thế nào không? Đã có lần bị đấm một cái mà tát lại được ba cái đấy. Giơ dao lên dọa, gái này cũng tốc phăng ngay cái coóc xê lên. Anh nào cũng phải gờm! (Kỹ nghệ lấy Tây - Vũ Trọng Phụng).

Ngôn ngữ của một mụ cai xe mắng chửi phu xe khi anh ta thiếu tiền thuế, cũng là thứ ngôn ngữ rất đặc trưng: “Mai mấy kia cái gì! Ao nó đâu, bắt lấy!... Mày thiếu tiền thuế còn bướng phải không? Nó nỏ mồm, đánh bỏ mẹ nó đi cho bà... quai thêm cho nó mấy cái. Mày nắn lưng nó cho bà. Bà đánh cho mày biết, từ rầy thì chừa thói ăn gian... (Tôi kéo xe - Tam Lang).

Bên cạnh ngôn ngữ thường ngày, ngôn ngữ nghề nghiệp - một thứ ngôn ngữ đặc trưng cũng được các tác giả phóng sự sử dụng khá thành công trong các phóng sự. Trong Cạm bẫy người các tiếng lóng của bọn cờ bạc như chếch, giát, mòng, quých, thiếc... Tiếng lóng của bọn ăn cắp như hiếc (lấy), khai (rạch túi), nẩy (cắt khuy, moi cá (móc ví), viết bút (rạch túi bằng dao) bơm giàng, bờm sách (bắt gà, bắt chó) trong tác phẩm Trong làng chạy, cũng được Vũ Trọng Phụng và Tam Lang sử dụng khá nhuần nhuyễn.

Việc sử dụng các loại khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật cũng như ngôn ngữ nghề nghiệp không chỉ chứng tỏ sự am hiểu kỹ lưỡng của các tác giả đối với từng đối tượng được miêu tả mà còn góp phần đắc lực trong việc cá tính hoá ngôn ngữ nhân vật.

Ngoài ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ miêu tả cũng được các tác giả phóng sự quan tâm và thể hiện rất hiệu quả. Nhiều thiên phóng sự lôi cuốn được bạn đọc chính là ở sự kết hợp tinh xảo giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ tiểu thuyết giàu hình ảnh. Đây là cảnh Yến Đình miêu tả một canh bạc; “Năm sáu cánh tay khua động. Năm sáu bàn tay vồ nhau, chộp nhau, tranh nhau chặn lấy đồng hào. Mấy cái đầu bù chạm nhau công cốc. Cái chiếu xô lệch. Những quân bài tổ tôm văng tứ tung. Và tiếng cười ròn tan. Và tiếng kêu hỗn độn”. (Thanh niên trụy lạc. Đây nữa hình ảnh những chú bé đói ăn: “chúng nhướng lông mày lên, chớp mắt rất thong thả, rồi thở dài. Chỉ trong một giây đồng hồ, cái đói âm thầm diễn ra dưới những nét mặt đau đớn, ngây thơ” (Trong làng chạy - Tam Lang). Với những hình ảnh miêu tả trên, bạn đọc như tự hỏi: không biết mình đang đọc một thiên phóng sự hay đang xem một thước phim cận cảnh? Trong phóng sự Thanh niên trụy lạc, hình ảnh một người con gái đi bán mình trong đêm tối cũng được Yến Đình miêu tả vừa chua xót, vừa lãng mạn: “Một cơn gió thổi mạnh. Một chiếc lá ném xuống con đường xi măng bóng nhoáng. Chiếc lá xoay mấy vòng, lăn lăn trên đường rồi đuổi theo bóng người con gái nhoà dần trong đêm tối”. Một làng quê qua ngôn ngữ miêu tả của Trọng Lang thê lương mà vẫn có chút gì đó thi vị: “Trong một rừng tre, làng của Loan nhỏ như cái xóm. Nhà của Loan lại nhỏ quá, trong cái đã nhỏ rồi. Nó như cái nấm, ẩm thấp, đầy rêu phủ. Con chó cũng vậy, già ghê người, lê thê một giãy vú gần chạm đất. Cả đến ông cụ đẻ ra Loan, già và yếu đến thũng quần áo xuống” (Tết trong lòng người ta). Cách sử dụng ngôn ngữ đầy gợi cảm và giàu chất tạo hình trên ta còn gặp rất nhiều trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Trần Ai, Thạch Lam, Nguyễn Tuân... Với cách sử dụng ngôn ngữ này, nghệ thuật miêu tả trong các tác phẩm, phóng sự đã đạt đến mức hoàn hảo và cho đến hôm nay nó vẫn là những mẫu mực.

L.D.T
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

  • PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

  • VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.