Ngày xuân đọc thơ tình Nguyễn Công Trứ

08:30 23/12/2009
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

Nguyễn Công Trứ - Ảnh: cuocsongviet.com.vn

Cái kiểu cưỡi bò vàng, đeo đạc ngựa, chỗ đuôi bò treo cái mo cau, người ta hỏi, nói "để che miệng thế gian" thì không chỉ trong triều mà cả ngoài đời cũng chẳng ai "ngất ngưỡng như ông". Còn "đa tình" thì hãy đọc thơ ông sẽ biết. Nguyễn Công Trứ làm thơ vịnh "chí nam chi", vịnh "nhân tình thế thái", vịnh các danh lam thắng cảnh, các nhân vật lịch sử... và dành khá nhiều bài thơ để vịnh chữ tình. Một người đồng hương sinh trước ông 12 năm là Nguyễn Du cũng làm quan nhà Nguyễn, cũng đa tình và viết thơ tình rất hay. Nhưng Nguyễn Du chỉ nói gián tiếp qua mối tình Thúy Kiều - Kim Trọng, còn Nguyễn Công Trứ thì trực tiếp diễn tả tình cảm của mình. Một vị quan đại thần lại đi viết thơ tình quả là điều "xưa nay hiếm" trong chế độ phong kiến vốn rất kiêng kị nếu không nói là "dị ứng" đối với thứ tình cảm rất người này.

Có hàng trăm, hàng nghìn định nghĩa về tình yêu nam nữ, tình yêu trai gái - Nguyễn Công Trứ định nghĩa theo cách riêng của mình: "Cái tình là cái chi chi"! Chắc những năm làm quan ở Huế, Nguyễn Công Trứ đã từng viết, từng nghe "Cái tình chi" trong "Nước non ngàn dặm ra đi" diễn tả tâm trạng vừa đau đớn vấn vương của Huyền Trân Công chúa. Đó là lời một bài ca Huế khá nổi tiếng. Mới đọc qua "Cái tình là cái chi chi" của Nguyễn Công Trứ người ta dễ nhầm với "Cái tình chi" trong "Nước non ngàn dặm ra đi". Xem xét kỹ ta mới thấy đây là hai cách nói hoàn toàn khác nhau. Nếu "Cái tình chi" trong "Nước non ngàn dặm..." là tình cảm của Huyền Trân Công chúa đối với quê hương, đất nước, đối với những người thân yêu trước khi bước chân ra đi làm dâu nước người theo sự sắp đặt của vua cha thì "Cái tình là cái chi chi" của Nguyễn Công Trứ lại nói đến tình yêu nam nữ. "Cái tình chi" thuần túy trữ tình, còn "Cái tình là cái chi chi" ẩn chứa nụ cười hóm hỉnh. "Cái chi chi" rất khó nắm bắt.

Tình yêu vừa đơn giản vừa phức tạp vừa cụ thể vừa mơ hồ. Với người này tình yêu là hạnh phúc. Với người kia tình yêu là đau khổ. Tình yêu có thể chắp cánh cho con người bay tận trời xanh cũng có thể đẩy con người xuống bờ vực thẳm. Tình yêu không chỉ làm "đổ quán, xiêu đình" mà có khi làm cho "nghiêng nước, nghiêng thành". Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ đã viết về tình yêu. Tình yêu là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn. "Cái tình là cái chi chi" vừa là câu hỏi, vừa là câu trả lời. "Cái chi chi" ấy đã "làm khổ" Nguyễn Công Trứ, "làm khổ" biết bao người trên thế gian này.

                        Đa tình là dở
                        Đã mắc vào đổ gỡ cho ra
                        Khéo quấy người một cái tình ma
                        Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
                                               
("Vịnh chữ tình")

"Cái chi chi" ấy có một sức mạnh hết sức ghê gớm:

                        Đã gọi người nằm thiên cổ dậy
                        Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi
                                               
("Vinh chữ tình")

Càng tài hoa thì càng đa tình. Càng đa tình thì càng bị "cái tinh ma" nó "quậy". Vốn là người tài hoa nên Nguyễn Công Trứ hiểu thế nào khi "sa lưới" tình yêu. Ông đã từng "bổi bổi, hồi hồi..." mất ăn, mất ngủ vì nhớ mong người đẹp:

                        Tương tư không biết cái làm sao
                        Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào
                        Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện
                        Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao
                        Trăng soi trước mắt ngờ chân bước
                        Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào
                        Một nước, một non, người một ngã
                        Tương tư không biết cái làm sao!
                                                ("Tương tư")

Bài thơ diễn tả thật sinh động nỗi nhớ người yêu. Nhớ nên hay tưởng tượng: ở đâu, lúc nào cũng như nhìn thấy, nghe thấy hình bóng tiếng nói của người mình yêu. Đã "sa lưới" tình yêu thì "đố gỡ cho ra". "Cái tình chi" ấy đã bao lần làm cho nhà thơ tan nát cõi lòng. Đó là lúc nhà thơ chia tay với người mình yêu:

                        Tình ấy trăng kia như biết với
                        Chia làm hai nửa giọt hai bên

Một danh tướng can trường như ông, một viên quan đại thần "ngất ngưỡng" như ông thế mà khi đứng trước sự bội tình đã phải thốt lên những lời thê thiết:

                        Non nước, nước non ngao ngán nỗi
                        Cỏ hoa, hoa cỏ ngẩn ngơ chiều
                                               
("Trách tình nhân")

Trái tim nhà thơ mềm yếu làm sao! Nguyễn Công trứ từng chiến thắng nơi chiến trường nhưng phải chịu "thất bại" trước tình yêu. Và nhớ nếm mùi "thất bại" ấy, nhờ trái tim bị tổn thương ấy ông mới có thơ hay lưu lại cho hậu thế. Điều đó nói rằng dẫu là một danh tướng tài ba ông vẫn là con người. Trước tình yêu thì một vị tướng cũng tan nát trái tim như người bình thường. Có điều dầu biết "Cái tình là cái chi chi" như thế, Nguyễn Công Trứ vẫn không chối bỏ tình yêu ông vẫn cứ "chi chi với tình". Chỉ đảo đi đảo lại hai chữ "chi chi" mà nói được bao nhiêu ý. Cái "chi chi" ở câu trên là cái chi chi của tình yêu còn "cũng chi chi với tình là biểu hiện sự dấn thân. Biết đến với tình là "sa lưới", là vướng vào "dây oan", là vào chốn "ngục tù". Nhưng lạ thay người đời vẫn thích "sa lưới" vẫn thích vướng vào "dây oan" vẫn thích dấn thân vào chốn "tù ngục". Nguyễn Công Trứ đã từng muốn "đem lạng vàng" để chỉ mua lấy "một tiếng cười" của người đẹp. Ông phát hiện ở người phụ nữ một sức hấp dẫn đến kỳ lạ. Dường như vẻ đẹp của họ không phôi phải cùng thời gian. Nguyễn Công Trứ biết cách nói đùa, biết cách an ủi những vầng trăng ngay khi đã xế:

                        Trăng xế nhưng mà cũng chẳng khuyết
                        Hoa tàn song lại nhị càng tươi!

Chẳng thế mà khi đã vào tuổi "xưa nay hiếm" ông vẫn cưới vợ hầu 23 tuổi:

                        Tân nhân dục vấn lang niên kỷ
                        Ngũ thập niên tiền nhị thập tam
                        (Người vợ mới hỏi chồng bao nhiêu tuổi
                        Năm mươi năm trước (ta) hai ba tuổi!)
                                               
("Tuổi già cưới vợ hầu")

Ở phần cuối bài thơ, Nguyễn Công Trứ tự khẳng định:

                        Xưa nay mấy kẻ đa tình
                        Lão Trần là một với mình là hai!

Phải đặt vào địa vị của ông, đặt vào thời đại mà ông đang sống chúng ta mới thấy hết ý nghĩa mảng thơ tình mà Nguyễn Công Trứ gửi lại cùng hậu thế.

Quả là xưa nay ít ai "ngất ngưỡng" như ông, ít ai thành thật, bản lĩnh và đa tình như ông.

M.V.H
(122/04-99)


       




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.