TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
Ảnh chụp vệ tinh vùng đồi núi Thiên An, thuộc Kim Sơn-Châu Chữ (Ngọc Trản phong đầu)
Tác giả đã công bố phần phiên âm bản chữ Hán bài thơ Vịnh sử của Ngô Thì Hoàng, một tư liệu quý trong việc tìm nơi nguyên táng lăng mộ vua Quang Trung. Sau khi tổng quan những hướng tìm lăng mộ vua Quang Trung, tác giả giải nghĩa từng câu của bài Vịnh sử và từ hai câu [5], [6], tác giả đã chú giải, đề nghị một hướng tìm lăng mộ Quang Trung trên đỉnh núi Ngọc Trản ở Thừa Thiên Huế. Tác giả Phan Duy Kha cung cấp phần phiên âm bài thơ Vịnh sử, chúng tôi tạm phục hồi phần chữ Hán bài thơ:
詠史 (Vịnh sử)
絨 衣 赤 劍 下 東 山 [1] (Nhung y xích kiếm há Đông Sơn)
風 駭 雲 遛 郅 崮 間 [2] (Phong hãi, vân lưu chí cố gian)
三 赭 威 聲 留 旁 泊 [3] (Tam giả uy thanh lưu bạng bạc)
百 年 身 事 付循 環 [4] (Bách niên thân sự phó tuần hoàn)
西 湖 宮 裏 雲 仍 鎖 [5] (Tây Hồ cung lý vân nhưng tỏa)
玉 琖 峰 頭 土 未 乾 [6] (Ngọc Trản phong đầu thổ vị can)
誰 籲 當 年 乖 積善 [7] (Thùy dụ đương niên quai tích thiện)
重 人 何 力 儋 多 艱 [8] (Trùng nhân hà lực đảm đa gian)
Phan Duy Kha vừa dịch nghĩa vừa có giải thích, xin trích lại phần dịch nghĩa:
[1]: Khoác áo nhung y, cầm gươm từ núi Đông Sơn tiến xuống,
[2]: Trong khoảng trỏ tay, liếc mắt, mây gió phải hãi hùng.
[3]: Ba lần tiến quân, tiếng tăm lừng lẫy.
[4]: Trăm năm sự nghiệp phó mặc cho sự tuần hoàn.
[5]: Trên cung ở Tây Hồ, mây vẫn phủ kín.
[6]: Đầu núi Ngọc Trản đất còn chưa khô.
[7]: Khi xây dựng sự nhiệp vì thiếu lo tích thiện,
[8]: Nên vua nối ngôi không đủ sức chống với tình thế gian nan.
Ngô Thì Hoàng là em cùng cha khác mẹ của Ngô Thì Nhậm, sinh năm 1768 và mất năm 1814. Ông chỉ đỗ tú tài năm1807, nghiên cứu sâu Phật học, từng cộng tác với Ngô Thì Nhậm ở Thiền viện Trúc Lâm phường Bích Câu, Thăng Long. Ông mất năm 1814. Tuổi thanh niên của Ngô Thì Hoàng, chứng kiến những chiến công lừng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Qua các anh Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Trí làm quan lớn thời Tây Sơn, ông nắm kỹ sự nghiệp Tây Sơn. Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, ông sống thời Gia Long, ông vẫn đánh giá cao sự nghiệp vua Quang Trung nhưng tiếc là đức nhà Tây Sơn quá mỏng. Ông Tú Chùa biết nhiều sự kiện quan trọng triều Tây Sơn cho nên những thông tin rút từ bài thơ Vịnh sử có độ tin cao.
Chúng tôi nhất trí với nhận định của Phan Duy Kha: “Trong số thơ văn của ông có bài Vịnh sử, đây là bài thơ làm dưới thời Gia Long… nên có những câu tác giả không dám nói thẳng, nhưng nếu để ý phân tích kỹ, từng chữ đều “vận” vào Quang Trung và nhà Tây Sơn”.
Tuy nhiên có một số câu chữ chúng tôi kiến giải khác Phan Duy Kha, vì thế xin thương thảo với tác giả vậy.
[1], [2]: Khoát nhung y từ biển Đông tới: Tuốt kiếm báu từ núi Tây giáng xuống. Gió phải sợ, mây cũng ngừng bay trước vách núi sừng sững. Phan Duy Kha cho rằng “câu này chỉ nơi phát tích của nhà Tây Sơn, nhưng tác giả nói “trại” “Tây” thành “Đông” để che mắt nhà Nguyễn”.
Xin được bổ sung: Khi Tây Sơn ở Phú Xuân, có dựng những cột đá khắc chữ Hán: “Hổ hướng Tây Sơn khởi”, dòng chữ này có vế đối “Long tòng Đông Hải lai” được chép trong “Hoàng Lê nhất thống chí”. Tác giả ghép chữ Đông và chữ Sơn trong 2 câu trên nhằm phiếm chỉ vua Quang Trung của phong trào Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt, trong đó Nguyễn Huệ là kiệt hiệt nhất.
[5]: Phan Duy Kha giải thích câu [5] bài thơ: “Trên cung ở Tây Hồ, mây vẫn phủ kín: Nói việc Quang Toản sau khi thất thủ Kinh đô Phú Xuân, đã bỏ chạy ra Thăng Long, đóng đô ở cạnh Tây Hồ. Tây Hồ vẫn được coi là hồ có nhiều mây mù hay mù sương (Dâm Đàm)” (sđd, tr.163). Chúng tôi hiểu theo hướng khác Phan Duy Kha, câu [5]: Mây còn bị giữ trong cung ở Tây Hồ. Ngô Thì Hoàng ám chỉ lăng (giả) vua Quang Trung ở Tây Hồ, có những di vật như bia “thánh đức”, bia do vua Càn Long ban tặng, nói lên cái vinh quang (đường mây) của tiên đế Quang Trung đã bị chôn vùi, che lấp. Cung ở đây là lăng như Ngô Thì Nhậm từng gọi Đan Dương lăng là Đan Dương cung điện.
Sau khi vua Quang Trung băng hà, do giữ bí mật ban đầu và do bang giao với triều Thanh, triều Tây Sơn đã dựng hai lăng cho tiên đế Quang Trung.
Lăng thật vua Quang Trung táng ở Kinh đô Phú Xuân, thuộc bờ Nam sông Hương, về sau triều Tây Sơn đứng đầu là vua Cảnh Thịnh, thường cùng đại thần bái tảo, tế lễ và khi Ngô Thì Nhậm vào triều cận từ năm 1796 thường phụng ký thơ dể ghi chép việc bái tảo. Sau khi chiếm lại Phú Xuân, vua Gia Long ra lệnh quật mộ hai vợ chồng vua Quang Trung, nhận dạng xác ướp để xác minh thật hay giả, đem bêu ở một số chợ ở kinh thành để thị chúng và để kiểm chứng thật giả đối với số đông dân chúng. Hơn một năm, từ khi quật mộ vợ chồng vua Quang Trung, vua Gia Long mới thanh toán triều Tây Sơn Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, tổ chức lễ Hiến Phù trước từ đường của tổ tiên, thờ các chúa Nguyễn tiền triều và cũng công khai việc trừng trị Tây Sơn vào mùa đông năm Nhâm Tuất [1802].
Lăng giả vua Quang Trung dựng ở Tây Hồ, Thăng Long và báo cáo việc này với thiên triều Đại Thanh nhằm vua con Cảnh Thịnh sớm được phong An Nam quốc vương. Triều Cảnh Thịnh có Ngô Thì Nhậm bày ra kế nói lên “đan thâm”, lòng son sâu sắc, của Tiên hoàng đối với đại hoàng đế Càn Long như “Đại Nam liệt truyện chính biên” chép: “Sai thị trung Đại học sĩ Ngô Nhậm, Hộ bộ tả đồng nghị là Nguyễn Viết Trực, Hộ bộ tả thị lang là Nguyễn Văn Thái, sang nước Thanh báo tang, nói dối là Huệ dặn sau khi chết rồi táng ở Tây Hồ Bắc thành, ngõ hầu được gần cửa nhà vua để nương tựa, vua, nước Thanh tin lời, cho tên thụy là Trung Thuần, thân làm một bài thơ để viếng” (sđd, tr. 560). Sứ giả nhà Thanh là Thành Lâm, mang lễ vật qua Thăng Long, đến mộ giả ở Tây Hồ, tuyên đọc chiếu phúng điếu và cho khắc đá bài thơ viếng Tiên hoàng Quang Trung của vua Càn Long, trong đó có câu “膝下魂如父子親” (Tất hạ hồn như phụ tử thân) (Vong vị từng dưới gối thân tình như cha con), 鄰其 忠 坤出中禛 (Lân kỳ trung khôn xuất trung chân - Thương về lòng trung thuận từ đáy lòng tỏ ra).
Câu [6] bài thơ Vịnh sử và vấn đề lăng mộ vua Quang Trung.
Phan Duy Kha giải thích câu [6], xong đưa ý kiến về vị trí mộ Quang Trung: “Đầu núi Ngọc Trản đất còn chưa khô… Theo bài thơ này thì vị trí lăng mộ Quang Trung được xác định một cách cụ thể, đó là ở trên núi Ngọc Trản. Núi Ngọc Trản tức Ngọc Trản Sơn, dân gian gọi là Hòn Chén ở phía Nam thành phố Huế. Nơi đây bốn mùa cây cối xanh tươi, tỏa bóng xuống sông Hương, cảnh trí rất đẹp. Trên núi có một chỗ trũng xuống như hình cái chén nên mới có tên gọi là Ngọc Trản (Chén Ngọc). Ở sườn núi có điện Hòn Chén. Đây là một thế đất đẹp, một “cuộc” đất tốt nếu xét theo con mắt của nhà địa lý xưa. Vì vậy việc chọ làm lăng mộ cho Quang Trung là điều có khả năng xảy ra” (sđd,tr.164).
Tác giả Phan Duy Kha biết chính sử triều Nguyễn chép lăng Nguyễn Huệ ở bờ Nam sông Hương mà núi Ngọc Trản lại ở bờ Bắc sông Hương nên hướng tìm kiếm mộ vua Quang Trung gặp “vấn nạn”. Tác giả khắc phục bằng biện luận như sau: “Về câu văn trong Đại Nam chính biên liệt truyện ghi “táng ở phía Nam sông Hương” chúng ta có thể hiểu là: nếu lấy đoạn sông Hương chảy qua Kinh đô Phú Xuân làm chuẩn để định hướng thì núi Ngọc Trản ở về phía Nam. Sở dĩ phải hiểu như thế vì cách Phú Xuân 5km về phía thượng nguồn, sông Hương chảy theo hướng từ Nam lên Bắc, nên nếu lấy đoạn này làm chuẩn định hướng thì chỉ có phía Đông hay phía Tây mà thôi. Việc các nhà làm sử lấy Kinh đô Phú Xuân và đoạn sông chảy qua kinh đô để làm chuẩn định hướng là hoàn toàn hợp lý. Như vậy thì câu: “Táng ở phía Nam sông Hương” là hoàn toàn phù hợp.” (sđd, tr. 165).
Nếu theo cách định vị của Phan Duy Kha thì có thể cho các lăng tẩm chúa Nguyễn, lăng các vua Gia Long, vua Minh Mạng ở Nam sông Hương được không? Quá khiên cưỡng! Ngoài ra, khi vua Quang Trung lâm bệnh, hôn mê sâu, Bắc cung hoàng hậu từng đi cầu đảo ở các đền miếu thờ thần, trong đó có miếu thờ thần Thiên Y A Na (Ponaga). Ở sườn núi Ngọc Trản có điện Hòn Chén thờ các thần, trong đó có thờ mẫu; thế thì triều Tây Sơn không thể táng vua Quang Trung trên đỉnh Ngọc Trản, một là “bất kính” đối với thần linh, hai là không bảo đảm an táng bí mật tiên đế Quang Trung được.
Thay lời kết
Những ngày đầu xuân, đọc lại bài Vịnh sử, khúc bi tráng về cuộc đời vua Quang Trung, không thể quên đại chiến dịch quẻt sạch quân xâm lược Thanh, khởi từ mùa đông năm Thân và đại thắng đầu xuân năm Dậu. Vua Quang Trung rực sáng như ngọc nhưng cũng có tì vết. Lịch sử rất công bằng, những sử quan triều Nguyễn viết kỹ về những tì vết của vua Quang Trung với tâm cảm bất bình nhưng khi viết về những chiến công lẫy lừng của “kẻ tiếm ngụy” thì họ không thể “bẻ cong ngòi bút”. Hậu thế đọc những dòng những chữ trong “Đại Nam chính biên liệt truyện” viết về “Ngụy Huệ” vẫn thấy dòng máu Việt bất khuất luôn trào dâng trên ngọn bút sử quan [triều Nguyễn]. Họ rất đỗi tự hào về vị anh hùng dân tộc, khoát nhung y sạm khói chiến trường, vào Thăng Long ngày tết Kỷ Dậu [1789], khi giặc xâm lược có tên phơi xác, có tên trôi sông, có tên còn chạy thục mạng về Bắc. Càng nghĩ càng thắm thía nỗi niềm rằng, đến nay giới nghiên cứu chưa tìm được nơi nguyên táng của vị vua anh hùng! Chính sử triều Nguyễn không nói rõ nơi nguyên táng nhưng cũng cho biết một hướng tìm, ấy là cứ tìm trên đồi núi bờ Nam sông Hương, dọc bờ sông như “trục hoành cong”. Còn bài thơ Vịnh sử của nhân chứng Ngô Thì Hoàng lại chỉ ra hướng tìm là theo dãy núi Hương Uyển, có Ngọc Trản với cái bướu kéo dài từ bờ Bắc sông Hương qua bờ Nam sông Hương, mà sông Hương như “ngấn cổ” để phân biệt “cái đầu” và “cái bướu” (“trục tung cong”). Giao của hai tập hợp, “trục hoành cong” (theo bờ Nam sông Hương) và “trục tung cong” (núi Hương Uyển kéo dài đến “bướu” Kim Sơn), là vùng có nơi nguyên táng vua Quang Trung vậy. Hơn nữa “Tây Sơn thực lục” cũng cung cấp một thông tin từ thế kỷ 19, rằng nơi táng Chánh cung Hoàng hậu của vua Quang Trung là vùng núi Kim Sơn, cũng nằm trong tập hợp giao nói trên. Danh xưng Kim Phụng để chỉ Thương Sơn, ngọn núi mà Tùng Thiện Vương và Cao Chu Thần rất yêu, mới dùng vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.
Huế, 10/12/2016
T.V.Đ
(SHSDB24/03-2017)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.