THÁI NGỌC SAN
Hình ảnh của Hảo trên sân ga làm cho tôi đau đớn. Nàng giống như một nữ tu kín trong ngày ép xác, cả người trùm kín trong chiếc áo khoác và tấm khăn choàng nỉ đen, hơi sương giá tháng ba như những mũi kim găm vào da thịt làm mặt nàng tím ngắt.
Minh họa: Đinh Cường
Tôi rùng mình nhớ đến ngày thứ sáu hôm trước và hối hận tại sao lại để nàng đến đây. Hồi còi tàu lần thứ ba rúc lên như tiếng kêu tắc nghẹn đau xé. "Hãy tha tội cho anh", tôi nói vội vàng và bỗng thấy câu nói thật là thừa thãi, vô nghĩa. Nàng không nói gì. "Cho em gởi lời thăm chị ấy", cuối cùng nàng nói. "Không có gì, anh đi đi, không có gì hết", nàng nói thêm, không biết để trấn an tôi hay để tự trấn an nàng, tiếng nói khô khốc, lạnh buốt. Con tàu rùng rùng chuyển bánh và tôi thấy Hảo vẫn đứng yên như bức tượng bên trụ điện, không ngước mắt nhìn theo. Nhưng tôi biết nàng sẽ còn đứng đấy cho đến khi con tàu xa khuất và nàng có thể đứng đấy hàng thế kỷ...
"Em không hiểu vì sao em yêu anh, một lần Hảo nói với tôi, em không hiểu. Nhưng nếu hiểu ra chắc em chết mất - nàng nói tiếp - nhưng còn anh?" - "Anh cũng không hiểu"- tôi nói. "Anh nói dối. Anh hiểu, anh hiểu vì mọi thứ đối với anh thì dễ hiểu hơn". Tính cách nàng là vậy, tôi không cãi, nhưng nghiệm ra thì chắc nàng có lý. Đúng là tôi hiểu vì sao tôi yêu nàng. Người con gái nầy đã đến với tôi như một cơn lốc cuồng nhiệt, một khát vọng không cùng, tôi bị nàng cuốn vào không dứt ra được; ở nàng tôi tìm thấy sự say mê, niềm hoan lạc, những cơn bùng cháy của núi lửa và cả những sự im lặng của hố thẳm. Lần đầu tiên gặp nàng tôi thảng thốt biết rằng trái tim tôi đã bị đóng một cái đinh găm. Hôm ấy, đến cả mười năm rồi, nàng hiện ra như trong truyện cổ tích, trước phòng vẽ của tôi, với chiếc áo cánh màu xanh da trời, dải nơ trắng trên bím tóc, cái bím tóc lúc lắc, và chiếc răng khểnh. Bao giờ nghĩ đến nàng tôi cũng thấy hiện ra cái hình ảnh ấy, những màu sắc ấy, nó cứ tràn ngập nhảy múa khắp các bức tranh, khắp các xó xỉnh tâm hồn tôi. Trông nàng tôi bỗng nhớ đến con chim chìa vôi trên những thửa đất cày bủng nước, những con chim mỗi năm chỉ xuất hiện một lần khi mùa mưa bão tới. Tôi nói nhưng nàng không hiểu - nàng chưa hề biết một loài chim như thế. "Nó từa tựa chim chích chòe", tôi giải thích. "Chim chích chòe thì em biết. Nhưng em không phải là chim chích đâu, em là con quạ khoang đội lốt, con quạ khoang thích những tĩnh vật". Nói xong nàng đến đứng ngắm nghía những trái măng cụt, những bông hoa hải đường trên một bức tranh cũ của tôi. "Em không thích màu đỏ gụ của giàn thờ, bao giờ nó cũng gợi cho em những xác hoa rụng trên vỉa hè, những nhà tu kín..." Bức tranh ấy nay đã được tôi xếp vào trong một xó góc của quá khứ. Và một thế giới mới bắt đầu được mở ra bất ngờ, và đơn giản như tình yêu của nàng. Nàng đến bất ngờ, đơn giản nhưng đầy bí ẩn như màu sắc hiện ra trên khung vải, tôi tưởng như đã bắt được nàng trong tầm tay, thế nhưng, chúng giống như những bức tranh đã được lồng trong khung kính, tôi biết, suốt đời tôi còn phải tìm kiếm một gam màu khác nữa vẫn còn chìm ẩn đâu đó. Trên căn gác nhỏ ấy, nơi mỗi năm tôi về một lần, bao giờ trở lại tôi cũng tưởng như đã có nàng ở đấy, như những tuýp màu, những khung vải. Cũng thật lạ lùng, như tự thân nàng có một sức dẫn nào đó vô hình làm xóa nhòa đi mọi ranh giới, mọi trói buộc, trong suốt mười năm nàng đến đây, mọi người trong cái thế giới cỏn con này tự nhiên xem nàng như một thành viên của gia đình. Nàng đến sắp xếp, bày biện rồi đi, cả khi không có tôi. Còn tôi, tôi giống như đứa trẻ, mỗi khi trở lại, tôi xục xạo các gam màu và chìm ngập trong thân thể nàng. Nhưng mỗi khi vừa bước ra khỏi, tôi lại thấy hụt hẫng, lại thấy khát khao, lại quay quắt muốn bắt đầu lại từ đầu. Đột nhiên, một lần nàng nói: "Tại sao anh phải đóng khung các bức tranh?". Tôi giật mình, tưởng nàng muốn ám chỉ đến mối quan hệ giữa tôi với nàng. Nhưng không, mặt nàng lạnh tanh như mỗi lần đề cập tới những vấn đề nàng quan tâm. "Dù sao các tấm vải cũng như thế giới đều nằm trong những kích thước có sẵn", tôi nói. "Không, thế giới không nằm trong những ô vuông, hoặc hình chữ nhật - thế giới không giới hạn, nàng nói. Cũng bởi vậy em thích biển mặc dù em chưa bao giờ đến với nó, bao giờ biển cũng tạo cho em ấn tượng không bờ bến". "Biển vẫn có bờ...", tôi nói và bỗng thấy mình hớ hênh. Nhưng dường như nàng chẳng để ý gì đến lời tôi, hoặc là nàng cố tình như vậy, nét mặt nàng trở lại bình thản, xa xăm. Nàng cất tiếng hát một bài hát nàng thích: "Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống. Đâu đây buông lững lơ tiếng chuông. Đàn chim én bâng khuâng rã rời và mây xám về ngang lửng trời...". Ngay cả tiếng hát tôi đã nghe đi nghe lại bao nhiêu lần, nhưng mỗi lần nàng cất lên, tôi vẫn nghe âm vang như tiếng thì thầm của một thế giới nào đó xa xôi vẳng lại.
Hảo đánh cho tôi một bức điện khó hiểu: Em đợi anh. Tôi lạ lùng, lo lắng. Trong suốt mười năm nay, thời gian xa nhau, chưa bao giờ nàng viết cho tôi một chữ. "Chữ nghĩa không là gì hết, nàng nói, nó nghèo nàn không chịu nổi". Còn tôi, mỗi khi xa nàng, nghĩ đến nàng, tôi quay quắt đến dại khờ. Có lần tôi hỏi nàng có đọc những lá thư tôi không, nàng nói chẳng những thế mà còn có thể thuộc lòng. Đoạn, giống như người mẹ trấn an con cái, nàng nhắc cho tôi chi tiết trong một bức thư, cả ngày tháng gửi, trong số hàng trăm bức thư tôi gởi cho nàng được nàng sắp đầy một hộc tủ. Nàng có một trí nhớ thật đáng sợ, như thể đã được kết tinh từ những năm tháng cô độc, đau thương trong căn phòng lạnh ngắt, với bà cô già mù lòa và với mối ám ảnh khủng khiếp. Nàng sống ở đấy kể từ năm lên mười, sau cái đêm bom kinh hoàng đã vùi chôn cả cha mẹ nàng trong đống gạch vỡ. Căn phòng này mỗi khi đến tôi đều có cảm giác gai lạnh như đang ở trong một cỗ áo quan: Cái giường, cái tủ, cái kệ sách, chiếc ghế dựa bên thềm cửa của bà cô mù lòa..., tất cả đều được sắp xếp một cách ngăn nắp, ngăn nắp đến lạnh lẽo. Và tôi hiểu, tôi hiểu một cách đau đớn rằng vì sao nàng không muốn tôi đến đây. "Nơi đây là thế giới của riêng em, khi không có anh, là...", nàng muốn nói thêm một điều gì nữa nhưng bỗng nhiên im bặt. Tôi bắt chợt một tia sáng long lanh trong mắt nàng, nó tỏa ra rồi tắt ngấm rất nhanh, tựa như một đốm sao băng. Có một lần, tôi nhớ, đang đi trên đường, đột nhiên nàng thét lên như bất tỉnh trong tay tôi. Đến khi hiểu ra tôi vội dìu nàng qua bên kia đường: Trên vỉa hè kia, một đám trẻ đang đùa dẫm trên những xác hoa gạo, những xác hoa đỏ bầm bắn tung tóe như những vạt máu. Đêm ấy nàng nằm sốt li bì run rẩy trong tay tôi. Nhìn nàng nước mắt tôi tự nhiên ứa ra, tôi chạnh nhớ đến thuở nhỏ xa xưa một lần tôi đã khóc một con chim nhỏ bị thương co quắp trong tay mình.
Lần này Hảo không đón tôi ở sân ga. Tôi hốt hoảng nhưng khi về đến phòng vẽ đã thấy nàng ở đó. Nàng ngồi bên khung cửa sổ, quay lưng lại phía tôi, lặng yên như đã hóa thành tĩnh vật trong một bức tranh. Khung cửa sổ mở rộng, chỉ khác lệ thường, không có những cánh hoa bướm đủ màu sắc lung linh, bay lượn. Nàng rất thích những cánh hoa ấy và khung cửa sổ của căn gác nầy, nơi nàng thường đứng hàng giờ nhìn bầu trời ngổn ngang những mái phố cổ, những con đường nhỏ kẻ ô khuất dưới những hàng cây. Những đêm mùa đông nàng vẫn để rộng cánh cửa đứng lạnh cóng trong hơi sương buốt giá. "Đây là thế giới của Chagall, nàng nói, anh nhìn xem, bên mái nhà kia trên cái cây bàng trụi lá ấy, chàng nghệ sĩ đang ngồi kéo bản xô-nát của Shubert!" Chàng nghệ sĩ thì tôi không thấy, nhưng tiếng nhạc réo rắt thì tôi nghe vẳng lên từ đâu đó, bảng lảng trong sương khuya. Một lần khác, nàng nói: "Em tin một ngày kia chúng ta sẽ bay lên, bay lên giữa bầu trời này và rắc hoa lên những mái phố cổ..."
Không bao giờ tôi có thể quên được khuôn mặt của Hảo hôm ấy. Khi tôi bước tới đứng trước mặt nàng, tôi bỗng khựng lại, toàn thân gai lạnh như đối diện với một bức tường giá băng. Nàng ngồi yên như thể đã ngồi yên như thế hàng trăm năm rồi, đôi mắt thâm quầng che phủ một màng mây đục, những đường gân xanh nổi lên chằng chịt trên làn da tái. Thốt nhiên tôi rùng mình tưởng như thấy căn nhà sắp sụp xuống vực thẳm tai biến. Nàng nói, không nhìn tôi, tiếng nói không âm sắc như được cất lên từ một nhà mồ lạnh lẽo, nàng báo cho tôi biết cái tin quan trọng ấy cùng với quyết định của nàng. Tôi như sụp xuống dưới chân nàng khi nghe nàng nói xong: Tôi kêu gọi, tôi van xin, tôi thề thốt, rằng nàng không được làm như vậy, rằng tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả, sẵn sàng trả giá cả cuộc đời tôi để bảo vệ nàng... Tôi nói như mê sảng nhưng nàng vẫn lạnh lùng như tảng băng. Cuối cùng, nàng nói: "Em đã quyết định rồi, không phải vì anh mà là vì em. Anh đã nói đúng: Thế giới, cuộc đời không thể vượt ra ngoài những kích thước có sẵn. Em đã bất lực, chịu thua. Bây giờ em mới biết vì sao em không tới biển - Em sợ…"
Hôm ấy đúng vào ngày thứ sáu, theo Thánh kinh là ngày ngài Giêsu của người Thiên chúa giáo chịu đóng đinh trên cây thập giá. Khi Hảo bước từng bước nặng nề qua cánh cổng sắt căn nhà quét vôi trắng toát sực mùi ê te ấy, tôi tưởng như thấy nàng đang bước đi trên con đường khổ nạn với cây thập giá trên vai, cây thập giá không hình hài nhưng chắc nặng gấp ngàn lần hơn cây thập giá hai mươi thế kỷ trước; tôi thảng thốt nghĩ đến những cái đinh nhọn sẽ đóng vào thân thể nàng, cái lưỡi lê sẽ xuyên thủng trái tim nàng... Một phút giây qua đi lúc bấy giờ tôi tưởng dài bằng cả thế kỷ. Chúa ơi! Tôi kêu thét lên cùng với tiếng kêu đau xé vẳng lên từ trong khung cửa căn phòng đóng kín kia. Cùng lúc, tôi tưởng như có tiếng sấm giật từ trên không trung, tiếng sấm hai mươi thế kỷ trước xé rách hai bức màn nhà thờ, và mặt đất dưới chân tôi nứt toác, rồi một cơn bão lốc từ đâu ào ào xô tới cuốn bay các cánh cửa, các mái nhà, cây cối, cuốn tôi bay lên, bay lên...
Khi bước vào căn phòng Hảo nằm, tôi tưởng như đang đứng trong một căn nhà mồ. Nàng nằm đấy, thân thể trùm kín trên chiếc băng ca, khuôn mặt bạc thếch trắng dã, tưởng như già đi trăm tuổi, hai con mắt mờ đục mở tròn nhìn lên cái trần nhà trắng toát. Tôi quỵ xuống bên gối nàng, ủ hai bàn tay lạnh giá mềm nhũn như tảng bông vào mặt mình và ước gì có một phép mầu nào đó cho tôi được truyền cả hơi ấm, cả máu huyết tôi cho nàng. Nàng nói thều thào: "Mọi sự đã xong, anh về đi, bây giờ anh chẳng có thể giúp gì được em đâu..."
Tôi biết tiếng nói ấy sẽ như lời phán truyền còn đuổi theo tôi suốt đời, như những mũi kim đâm vào trái tim rỉ máu.
11.1988
T.N.S
(SH35/01&02-89)
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rổ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Nó tỉnh dậy. Sương lành lạnh, thời tiết thật khắc nghiệt, ban ngày trời nắng như thiêu như đốt. Khẽ co ngón tay, một cảm giác đau buốt suốt từ đỉnh ngón chạy vào tim, xương sống như có luồng điện chạy qua. lạnh toát.
Chuyện kể rằng ở xóm Đồng có một gia đình hiếm con lắm, chữa mãi đến năm chồng 45 tuổi, vợ 40 tuổi mới có mang.
Khúc sông lặng lẽ như thói quen của nó vẫn lặng lẽ vào mùa thu nước kiệt. Bây giờ, dòng chảy chỉ còn là một dải nông lờ, xuống đến tận mép nước mới nghe được tiếng chảy róc rách như tiếng nói thầm.
“Ai cũng biết rằng tạo hóa sinh ra đất, nước, cây cỏ, chim muông, thú vật... và con người. Động vật có trước con người có sau. Như vạy họ là tiền bói của con người. Đã không thờ kính tiền bối, lại làm điều ác với họ, con người phải gánh chịu lấy hậu quả. Âu đó cũng là lẽ trời...!”
Chủ nhật, tôi đến thăm một người bạn quen nhưng không thân lắm ở bên kia Cầu Kho, phía Tây Bắc thành phố. Đã dăm bảy năm nay tôi không gặp anh, mặc dù đã biết anh chuyển về dạy ở Đại học Nông Lâm khá lâu.
Truyện ngụ ngôn của TRIỀU NGUYÊN
Truyện ngắn “Sóng ngoài khơi” đã tránh được gần như tất cả những trò “dỏm” của nhiều người cầm bút hôm nay: Viết về tình dục với cung cách ồn ào như thể đây là món tân kỳ về tư tưởng và nghệ thuật nhưng thật ra chỉ cho thấy thói a dua thời trang và sự thiếu hiểu biết về văn chương đương đại. Với một bút pháp tinh tế, thông minh, và kiềm chế, “Sóng ngoài khơi” đã thể hiện được bản lãnh văn chương của một tác giả trẻ khi đụng tới đề tài nằm ngoài kinh nghiệm bản thân như Khánh Phương. PHAN NHIÊN HẠO