Ngắm Chiều trên sông Hàm Luông

09:09 17/01/2019

LÊ KIM PHƯỢNG

Với thi sĩ Cao Quảng Văn, thơ là cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh và nếu văn chương có đích, thì thơ là tuyệt đích của tâm hồn. Ở chốn đó, sáng tạo ra đời. Vì vậy, thưởng thức thơ không thể không bằng cảm xúc từ trái tim của người đọc: “Thơ là tiếng nói từ trái tim đập vào trái tim”.

Cao Quảng Văn làm thơ từ rất sớm, từ cái thuở còn là cậu học trò lớp đệ tứ niên khóa 1960 - 1961 (lớp 9 bây giờ), ở trường trung học Nguyễn Du, thành phố Huế. Học môn văn thầy Tôn Thất Dương Tiềm và ông đã gây cho thầy rất ngạc nhiên khi viết vế Truyện Kiều: “Bốn phương phẳng lặng, ba kinh vững vàng...” (tập thơ lục bát). Nhắc chuyện cũ để thấy tố chất thơ trong con người ông đã hun đúc và hình thành thi sĩ Cao Quảng Văn về sau nầy. Tình thế “chẳng đặng đừng”, ông xa quê nhà 52 năm. Năm mươi hai năm buồn thốn tâm can, ông cố giữ chất Huế không bị vong thân dù phải trả cái giá: ông tự lưu đày ông giữa Sài Gòn. Thơ ông, hồn cốt tâm tư nằm ở cái chỗ tưởng dễ dãi, nhưng lại chặt chẽ, bởi tính ông cẩn trọng; song, nếu như cẩn trọng quá mức, nhất là ngôn từ thơ, đôi khi sẽ làm nghẽn mạch cái đẹp tự nhiên tiềm ẩn trong bản năng, hoặc làm hạn chế cao trào cảm xúc. Có lẽ, thi sĩ tiếp xúc rất sớm Đường thi và cũng có thể Đường thi là mối tình thơ đầu đời của ông. Đọc thơ ông, người đọc cảm nhận mây - trời - đất - nước, và người: một bức tranh thủy mạc bùi ngùi tang thương! Do đó, người đọc lướt qua thơ ông dễ bị dị ứng - cái dị ứng nhàm chán, nhịp đều như nhịp chày giã gạo dưới trăng khuya. Song, nếu người đọc, đọc bằng tâm thế “yêu thơ Huế” thì sẽ bất ngờ phát hiện thơ ông mang đủ tố chất Tam tài: Thiên - Nhân - Địa. Nghĩa là, với thơ - thơ không cần công cụ hỗ trợ, như: văn cần giấy bút; họa cần cọ, màu, giá vẽ; nhạc cần đàn... Chính vì vậy, thơ là đỉnh cao nghệ thuật, thơ hoàn toàn thuộc về tim chớ không phải óc; có lúc xuất thần và có khi nhập ma - Thần hay ma ở thơ là tiếng lòng của Người, sau thời khắc loại bỏ Con!

Có bạn nói với tôi rằng: “Thơ họ Cao mang hồn phương Đông, và đã là phương Đông thì hẳn nhiên nhẹ hoặc không có phương Tây”. Câu nói của bạn, khiến tôi chợt nhớ tới khổ đầu “Bài thơ Đông - Tây” của R.Kipling(*):

“Ôi, phương Đông là phương Đông, phương Tây là phương Tây, và hai bên sẽ chẳng thể bao giờ gặp nhau,
Cho đến khi Đất Trời có mặt tại Toà phán xử tối cao của Thượng Đế; Nhưng sẽ chẳng có Đông cũng chẳng có Tây, chẳng có Ranh giới, chẳng có Giống nòi, cũng chẳng có Sinh sôi,
Khi hai người đàn ông mạnh mẽ đứng đối diện nhau, dù họ đến từ những nơi tận cùng của Trái đất!”


Xét cho cùng, R.Kipling không bao giờ tuyên bố một cách dứt khoát về sự khác biệt Đông - Tây.

Thường thì, người ta hay cho rằng: người phương Tây duy lý, người phương Đông duy cảm; người phương Tây hành xử nặng về lý, người phương Đông hành xử nặng về tình. Thật ra, trong thơ Cao Quảng Văn có đủ lý - tình; và tất nhiên, cái tình là nền tảng vững chắc xây nên ngôi nhà thơ một cõi riêng của Cao Quảng Văn - bóng dáng hao giống con sông Bồ nuôi sống vùng đất Quảng Yên - nơi chúa Nguyễn tựa lưng Rồng dựng nghiệp và mở mang bờ cõi Đàng Trong.

Ở tập thơ “Chiều trên sông Hàm Luông” không hẳn tất cả các bài thơ vượt trên mức hay đối với người thưởng thức thơ và yêu thơ. Song, nhìn chung, Cao Quảng Văn đã đạt được các yếu tố cấu thành bài thơ thật là thơ, rất thơ: Lời hay ý đẹp, âm điệu, tiết tấu và truyền cảm - sự truyền cảm - chân thành và thật, từ trái tim của ông. Thơ ông dễ thuộc, dễ gây sự xúc động nơi người đọc, bởi câu thơ trọng ý hơn lời, bởi những khía cạnh nhiều mặt của đời sống được ông nhẹ nhàng và khéo léo cài cắm và thể hiện.

Nhà thơ Cao Quảng Văn đất Quảng Yên, không làm thơ chơi và cũng không làm thơ để đời; thi sĩ làm thơ để giải tỏa áp lực con tim thương quê nhớ xứ; yêu đất nước và cuộc sống, dù đó là thời chiến (trước 1975) hay thời bình (sau năm 1975), mà tập thơ “Chiều trên sông Hàm Luông” đã ghi chép lại: Hồn thơ thi sĩ Cao Quảng Văn!

Không ngẫu nhiên ông có mặt trong “Một thế kỷ văn học yêu nước, cách mạng thành phố Hồ Chí Minh” (Nxb. Văn Hóa - Văn Nghệ, 2016), cũng không ngẫu nhiên mà ông viết bài thơ Quê hương, Mẹ già và Em bé (1966), khi bị phải biệt xứ tới đất Sài Gòn. Tôi nhắc điều đó, để những ai yêu thơ Cao Quảng Văn thoáng chút suy ngẫm và nhận ra thơ của ông “Ý trọng hơn Lời”!

Với mặt bằng thơ hôm nay, thi phẩm “Chiều trên sông Hàm Luông” đã đóng cột mốc đời thơ và khẳng định Cao Quảng Văn là thi sĩ, góp phần tích cực vào sự sáng đẹp của văn chương: Chân - Thiện - Mỹ.

L.K.P  
(SHSDB31/12-2018)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN TRỌNG HUY  

    Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

  • TRÀNG DƯƠNG

    (Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

  • NGUYÊN SA(*)

    Từ những ngày còn theo học triết lý tại đại học Sorbonne tôi đã mơ hồ nghĩ mỗi dân tộc bao giờ cũng có một nền triết học riêng. Bởi vì, triết học, trên mọi bình diện nào đó, rút lại, chính là ý thức được hệ thống hóa và thuần túy hóa, là một tổng hợp nhân sinh quan và vũ trụ quan.

  • Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.

  • LÊ THÍ

    Trong một bài trả lời phỏng vấn, Đặng Tiến cho biết: “Tôi sinh 1940 tại xã Hòa Tiến, thành phố Đà Nẵng. Năm 1960, vào Sài Gòn học Đại học Văn Khoa, 1963 ra trường, đi dạy tại trường cấp 3 A.Yersin. Từ 1968, tôi về Pháp, học thêm ở Đại học Paris và bắt đầu công việc dạy Pháp văn cho một trường cấp 3 ở Orléans (cách Paris 100km). Cùng với Giáo sư Tạ Trọng Hiệp, tôi lập ra Ban Việt học tại ĐH Paris 7, giảng dạy ở đây từ 1969 - 2005”.

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Bạn đọc ngày nay đều biết bài thơ Huế tháng Tám nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, bài thơ được in trong tập Từ ấy và cho đến nay đã có mặt ở hầu hết các tuyển tập thơ Tố Hữu, đã đi vào sách giáo khoa của nhà trường phổ thông.

  • NGÔ THẢO
    (Từ kỷ niệm của một nhà văn)

    Trong đời mỗi người, thường vẫn có một nhà văn, mà ta thường tìm tới đọc lại vào những lúc cuộc sống chung hoặc riêng gặp những chuyện cần suy nghĩ.
     

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Mỗi tác phẩm đều là một sự thể nghiệm của nhà văn. Tất cả những tư tưởng, tình cảm và con người đều in dấu vào trang sách, hắt sáng lên những trang đời mới mẻ.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

  • MAI VĂN HOAN

    Tháng 6 năm 1995, khi gửi tập “Thơ Phùng Quán” vào Huế tặng nữ nhà văn Hà Khánh Linh, chị Bội Trâm - vợ nhà thơ Phùng Quán, ghi: “Thân tặng Hà Khánh Linh, người đã một thời khơi nguồn cảm hứng cho anh Quán làm thơ”.

  • Trong khi một số người viết mới xuất hiện hoặc không thuộc dòng “chủ lưu” cần được có những diễn đàn để có thể công bố tác phẩm, đối thoại, trao đổi một cách bình đẳng những vấn đề trực diện về nội dung và sáng tạo, thì điều này gần như là chuyện quá xa vời. Những gì được phổ cập trên mặt báo, sách xuất bản hiện thời quá thiếu tinh thần cống hiến, thiếu những tìm tòi nghiêm túc về nghề nghiệp và tri thức.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC - NGUYỄN XUÂN HOA Năm 1885 được đánh dấu bằng một sự kiện lịch sử quan trọng: đêm mồng 4, rạng ngày mồng 5-7-1885 Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn đã tiến công vào sào huyệt của thực dân Pháp tại kinh thành Huế, dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử chống thực dân Pháp.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN Nhà xuất bản Văn học(Đọc tập truyện ngắn Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc của Lê Minh Phong - NXB Văn học, 12 - 2011)

  • LGT: Lần đầu tiên khi tiếp cận với thể thơ Hài cú (Haiku) của Nhật Bản, R. M. Rilke (1875 - 1926) đã lập tức bị lôi cuốn vì vẻ đẹp dung dị và thuần khiết của thể thơ nhỏ bé, ngắn ngủi, ít lời nhất trên trường văn chương quốc tế.

  • BÙI VĂN KHA (Đọc Máy bay đang bay và những bài thơ khác - Thơ Nguyễn Hoa - Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc Rễ bèo chân sóng, hồi ký của Vũ Bão, Nxb Hà Nội, 2011)

  • Nhân 100 năm ngày sinh nhà văn Thanh Tịnh (12/12/1911-2011) và 70 năm ra đời “tôi đi học”

  • TÔN THẤT BÌNH "Biến động" là tập đầu trong bốn tập kể lại "một giai đoạn đấu tranh của nhân dân ta trước biến động của lịch sử khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, khi vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc Pháp, chăm lo cuộc sống riêng mình" (Lời Nhà xuất bản. tr.5).

  • BỬU NAM Tên nhà thơ không còn xa lạ gì với bạn đọc Sông Hương. Có thể nói hình như Tạp chí Sông Hương là mảnh đất thích hợp gieo trồng những tìm tòi nghệ thuật mới của anh.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.