Nhà thơ Thanh Hải - Ảnh: internet
THANH HẢI Ngã ba đường 9 Trạm gác ngã ba đường 9, một trạm gác lộng gió. Trạm làm bằng gỗ, vuông vắn, nằm ngay giữa trung tâm của những chuyến đi về, xòe hai cây tre chắn đường ra hai bên như hai cánh tay của cô gái Vân Kiều trong điệu múa dân tộc. Hai cánh tay ấy cử động theo một động tác mộc mạc gần như đơn điệu nhưng chân tình, trìu mến. Cánh tay nằm ngang. Mời các anh dừng lại, đường chưa đi được. Các anh xuống xe, đi bách bộ vài bước cho bớt cái co chân, chật chội trên thùng xe. Kìa cái màu xanh non của đồi gần. Kìa cái màu xanh đậm của núi xa. Bóng mây lởn vởn, chập chùng. Đường lên Lao Bảo đây. Đường về Khe Sanh đấy. Các anh hãy đi trong kỷ niệm và bồi dưỡng. Cánh tay giơ lên. Các anh đi nhé, đường thông rồi. Khói bộc phá tan dần đang ngược lên chiều gió. Người ngồi ở trạm gác điều khiển hai cánh tay ấy là một anh bộ đội cao vừa phải, da sạm đen, có bộ đi nhanh, bao giờ cũng đeo cái còi lủng lẳng ở cổ, cây bút chì trên túi áo. Chiếc còi ấy chỉ lên tiếng khi có một chiếc xe nào đó do “trái tim dưới vòng tay lái” hơi mất bình thường một chút, chạy quá tốc độ khi gần đến ba-ri-e hoặc đỗ sai nơi quy định. Sau khi còi lên tiếng, cây bút chì làm việc: số xe… của… ngày… giờ… Xe chúng tôi đỗ ở ngã ba chờ người trên Lao Bảo về. Khí hậu mùa này ở vùng đường 9 quả thật khó chịu. Nắng lên, nóng. Mây che khuất mặt trời, gió, lạnh. Trời như đang trong cơn sốt thất thường. Tôi đến tránh ở hướng tây khuất sau bức tường gỗ của trạm gác. Ở đây tôi đứng gần như sau lưng anh bộ đội coi trạm. - Xe vào quân khu hả? Xin mời… Anh bộ đội coi trạm không hút thuốc nhưng ngả người ra, mắt lim dim, hễ hả nhìn theo làn bụi cuộn lên đặc quánh, vàng nhợt rồi kéo dài như một làn khói rơm sau đoàn xe. Chúng nó lại vào. Những khuôn mặt trẻ măng gợi nhớ một cái gì, gợi suy nghĩ một điều gì. Cái gợi nhớ lâng lâng, tươi mát; cái suy nghĩ phơi phới, trẻ trung. Ra trận. Đi chiến trường. Như vậy đấy à! Mà mình cũng ở chiến trường đấy chứ. Điều mơ ước, tưởng tượng của anh khi còn ở quê làng, bây giờ hóa bình thường, quá đổi bình thường. Anh đã chuyển cái mơ ước, cái tưởng tượng hào hùng thi vị ấy qua cho người khác, những người khác, những đoàn xe… - Ba hả? Cánh tay giơ lên. Chúng nó đi phép. Nét mặt của những chàng đi phép náo nức lạ. Nếu xe dừng lâu ở ngã ba này anh có thể đọc được tiểu sử sơ lược của những anh chàng ngồi vắt vẻo trên thùng xe qua từng nét mặt. Anh này đăm đăm, lông mày nhíu lại, đôi môi tươi, kín đáo. Anh chàng có vợ, có con và giàu sức tưởng tượng. Ngồi đây mà anh đã mơ về quê nhà. Anh này trẻ nhưng thoáng nét ưu tư. Người yêu có vấn đề gì chăng? Còn mình? Sáu năm hơn rồi đấy nhỉ. Mỗi lần có xe đi phép qua, anh nhìn ngang, nhìn ngửa, bắt gặp một nét mặt quen, anh reo lên và trong gió đường 9 anh chạy theo gửi một lá thư. Lâu lâu những đứa đồng hương đi phép vào, dừng xe lại năm ba phút, trao anh một lá thư, một bao thuốc, một gói quà, một mớ tin tức bề bộn, cái sau thành cái trước, cái vừa qua thành cái đã qua. Rồi xe đi… - Anh, vợ con anh đấy à? - A… đồng chí! Anh bộ đội coi trạm gác định nổi nóng với tôi nhưng lại thôi, không nói nữa. Một tấm ảnh cỡ 9x12 để trước mặt. Trong ảnh, một người mẹ uốn tóc dài trùm lấy khuôn mặt xinh xắn đứng cạnh đứa con gái lên năm, lên sáu. Hai mẹ con nói gì qua cái nhìn tươi tắn, thăm thẳm ấy, cái nhìn của ngàn tiếng nói, của trăm lá thư. Anh ạ, em với con đấy. Anh đi được năm tháng thì em sinh. Bây giờ con đi mẫu giáo rồi. Thùy Dương ngoan lắm! Hôm anh Định về phép qua nhà Thùy Dương cứ hỏi mãi… Đôi mắt anh từng hôn lên đó nhòe đi, ươn ướt. Đừng yếu đuối vậy em ạ. Bao nhiêu lá thư về anh đã viết: đất nước còn bóng giặc. Bao nhiêu lá thư gửi vào em đã viết: anh yên tâm. Lại một đoàn xe nữa vào quân khu. Anh bộ đội coi trạm gác vội vàng kéo cây tre lên. - Đi nhé! Tuấn, mày không nhận ra tao à? Chuyến này tao đi xa đây… *** Tiếng còi ô tô gọi liên hồi. Xe trong ra. Ngoài này còi cũng gọi liên hồi. Xe ngoài vào đông hơn, tiếng còi lạ tai hơn. Không phải tiếng khét, chói tai của Din430. Cũng không phải tiếng ồm ồm, giọng trầm của anh chàng ba cầu. Nó như đánh nhịp, bông đùa. Một anh lái nào vui tính, bốc đồng chăng? Anh bộ đội coi trạm gác thổi còi cho chiếc xe trong ra dừng lại. DD 3402. Xe đi phép. Mời các vị bớt hồi hộp một chút, nhường đường cho người vào chiến trường. Anh DD 3402 đỗ sịch một bên đường. Chiến sĩ trên xe phóc xuống, uốn người, nhảy nhảy. Một anh bộ đội chậm chạp xuống sau, khẽ đặt giò phong lan xuống thềm xe. Một con két lông xanh mịn đậu trên vai anh nhúc nha nhúc nhích. Quà chiến trường cho con bé đây. Anh đủng đỉnh đi đến bên ba-ri-e. Cây tre chắn ngang đường sương gió mài nhẵn lì. Những bàn tay chờ đợi vuốt lên đó, ánh lên một màu vàng óng. Thời gian đợi chờ soi lóng lánh trong cái màu vàng quen thuộc đó. Tự nhiên anh bộ đội đưa tay mình cầm lấy cây tre. Bụi đất đường 9 theo bánh xe lăn cũng chia vòng theo hai ngả. Gió đẩy bụi chạy vào, tung lên, bốc theo ít lá xào xạc, chạy, cuồn cuộn chạy lên rồi vượt hẳn qua những đồi sim, me, tranh lẫn lộn. Mấy bụi cây cao ở góc đường nằm ngoài tầm gió khẽ đung đưa tàn lá. Dưới gốc cây, mấy viên đá tròn nhẵn bắt làm bếp vẫn ở thế cũ, xa xôi, bâng khuâng. Đôi cột trụ treo võng bám hờ hững ở hai gốc cây đàng xa. Vết lì trên thân cây ôm tròn sinh động nghe có tiếng võng của một đêm rừng. Anh bộ đội đi về phía lùm cây bất chợt hất lên một tờ giấy trắng ngả màu: Một chiếc B.52 và một dãy bom đang rơi. Mấy con cu ngói bay vút lên trời, màu lông óng ả. Chúng không bay thẳng mà lượn một vòng, sà theo gió, rồi chập chờn đậu xuống lùm cây xa. Đoàn xe vào đến ba-ri-e. Anh bộ đội coi trạm gác lóng ngóng, lóng ngóng thật sự. Anh định kéo cây tre lên, rồi lại thôi. Anh ra cửa, lại vào. Chiến sĩ đi phép dàn cả lên mặt đường. - Văn công! Văn công! - Cho anh em bắt tay đi! Những mái tóc tết đuôi sam. Những mái tóc uốn dài vòng quanh những cái cổ thon. Nụ cười trắng nõn, hàng mi cong chớp chớp. Chiếc mũi dọc dừa, đôi má đỏ ửng. Cặp mắt đen láy, ướt át. Khoảng khắc vẻ đẹp văn công đã hiện cả ra ngoài khung cửa. Một diễn viên - có lẽ là diễn viên xiếc - uốn mình một cái trên xe, nhẹ nhàng rơi xuống mặt đường làm mọi người cười rộ lên. - Đạt! Đừng tếu đấy, còn để sức… Tiếng nói từ trong xe vọng ra, làm vẻ già trước tuổi, đứng đắn, tỉnh táo. - Có chị mới cần giữ sức… Những tiếng cười con trai nổi lên. Cây tre chắn ngang đường vẫn nằm vậy không sốt ruột, cũng không mời mọc. Anh ta nằm im, vô tư, lơ đãng. Anh bộ đội ban nãy đứng bên lùm cây nhẹ nhàng đi về phía văn công. Tiếng nói trong thùng xe làm anh giật mình. Hai chân kéo anh đi. Anh đi bồn chồn, rất nhẹ, rất nhẹ sợ tan vỡ một cái gì đó đang hình thành. - Huệ! Một cái đầu trong thùng xe nghiêng ra, ngỡ ngàng, rồi… - Anh Hanh! Ôi, anh… Anh bộ đội coi trạm gác kéo cây tre lên rồi thả xuống. Anh chồm người nhìn ra khung cửa. Chị diễn viên đã nằm trong vòng tay người chồng. - Con đâu? - Em đi chiến trường… Anh… - Anh về phép. Hai dòng thương nhớ từ từ lăn trên má người vợ. Người chồng mím môi lại, cố hỏi thêm, nhưng tất cả đều tan biến. Năm năm rồi. Bé nga lên bốn. Mặt mũi nó thế nào? Nó ở nhà với bà ngoại. Nó có giống nét mặt nhòa nhòa trước mặt anh không? Đôi mắt ấy. Làn tóc ấy. Năm năm thương nhớ gửi về bây giờ là đây. Em có khác đi đấy chứ. Nào cái bàn tay đánh đàn của người nghệ sĩ nhân dân đã từng ra Cồn Cỏ… Xe hai đầu ba-ri-e ùn lại, ùn lại. Mấy anh lái xe nóng tính bóp còi inh ỏi. Cây tre chắn đường vẫn làm ngơ. Trên trời một đám mây trắng trôi nhẹ, lơ lững, sà xuống một đỉnh núi xa. Ánh nắng xuyên qua mây, chiếu xuống màu xanh cây rừng, ngời lên sắc nõn ngỡ ngàng, tươi mịn. Lan trên đồi nở hoa màu trắng đục, nhấp nhô, nhấp nhô, bát ngát, vô tận. Đàng xa, màu hoa lẫn trong màu khói bộc phá làm đường nổ lên hàng loạt. Anh bộ đội coi trạm gác lơ đãng nhìn mây, tay gõ gõ tấm ảnh xuống mặt bàn. Người mẹ trong ảnh tách ra, đi xa dần. Bé Thùy Dương rung rung mái tóc lớn lên, lớn lên. Anh ngồi bên con. Vợ anh ở đâu về, đôi má hồng hào… Ra đi. Sum họp. Sum họp. Ra đi. Điều mong ước và điều phải làm cho điều mong ước. Trong ấy, trong xa ấy còn bao nhiêu điều mong ước, hai mươi năm nay vẫn còn là điều mong ước. Ai chỉ nghĩ đến cái mong ước của mình mà quên điều mong ước lớn nhất của đất nước, người ấy … Không! Đất nước chưa yên, quân thù còn đó. Sao lại lo vun quén, suy nghĩ, chăm chút cho hạnh phúc riêng mình? Một anh lái xe, mặt đỏ bừng, vùng vằng chạy lại. - Ngủ gật à? Anh bộ đội coi trạm gác không nói, đưa mắt về phía Huệ và Hanh. Anh lái xe, ngoái lại, sững sàng, giọng thấp hẳn đi, hối hận. - Họ gặp nhau! Mây đường 9 sà thấp, ấm áp, trắng nõn. Gió thổi lên cao, lên cao theo những sườn đồi xanh mát. Tiếng đoàn xe nổ máy… Tháng 12-1973. T.H. (3/10-83) |
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.