Ưng Bình Thúc Dạ Thị - Ảnh: Internet
Cả hai nhà thơ đều xuất thân nho học, thông thạo chữ Hán, am hiểu tiếng Pháp, chữ quốc ngữ có làm quan địa phương trong chính phủ Nam triều nhưng luôn luôn giữ được cuộc sống thanh bạch, không hám danh lợi "thuở ra sân khấu không làm rộn, khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi" (Ưng Bình), "danh lợi trò đời chẳng ước mơ" (Nguyễn Khoa Vi). Mặc dầu hai nhà thơ có thời gian sống trong vùng tạm bị chiếm ở Huế, nhưng không cộng tác với đế quốc, ghét bon chen nịnh hót luôn luôn gìn giữ đạo đức trung hiếu với gia đình, dùng văn thơ để thể hiện tình cảm của mình đối với thiên nhiên, bạn bè, đất nước, là điều đáng ca ngợi đáng trân trọng. Về mặt sáng tác, hai nhà thơ có nét chung và nét riêng biểu hiện ở những điểm sau: I. Nét chung: 1. Ca Huế, hò Huế. Hai nhà thơ đều rất sành các làn điệu thơ dân gian ở Huế, thường có mặt, gà cho các tay hò mái nhị, hò giã gạo ở Huế do thi xã Hương Bình tổ chức. Nếu Ưng Bình có tập "Bán buồn mua vui", "Tiếng hát Sông Hương" thì Nguyễn Khoa Vi có tập "Hò mái nhì", "Hò mái đẩy". Đề tài thơ dân gian thường ca ngợi thiên nhiên, cảnh vật, con người các danh nhân nổi tiếng (ca ngợi sông Hương núi Ngự, cảnh vật ở Huế) (Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vi), ca ngợi các danh nhân: Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Tất Thành (Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vi). Hò chơi chữ, hò điển tích chữ chợ, hò chữ công, (Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vi)...Có những câu ca như: "Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu,ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông Đưa câu mái đẩy chanh lòng nước non (Ưng Bình) _ "Việt minh là việc của mình. Anh chị em ơi mau cầm cờ vác gậy mà đi biểu tình với bà con..."...(Nguyễn Khoa Vi) đã sớm trở thành tài sản tinh thần chung của Huế được nhân dân quen thuộc. Tính trữ tình xuyên suốt trong câu hò tiếng hát của hai nhà thơ. Tuy vậy ở Nguyễn KHoa Vi còn có những câu hò châm biếm thói hư tật xấu trong xã hội, chẳng hạn như Nguyễn Khoa Vi đã châm biếm một nhân tình già si tình: Sáng mai, anh gặp em, em nói thiếu tình yêu Buổi chiều lại gặp em, em nói thiếu tình yêu Ngày xuân em hãy còn nhiều Sáu ngàn ba vạn còn biết bao nhiêu là buổi mai chiều nữa hở em. 2. Thơ Đường luật của Ưng Bình và Nguyễn Khoa Vi. Thơ Đường luật là thể thơ chủ đạo trong sáng tác của hai nhà thơ. Ưng Bình có tập "Tình Thúc Giạ", "Đời Thúc Giạ". Năm 1992, Nhà xuất bản Thuận hóa in thành cuốn "Thơ ca Ưng Bình Thúc giạ thị tuyển", Nguyễn Khoa Vi có tập "Thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi tuyển" do Sở Văn hóa Thông tin Huế in năm 1991. Nét chung giữa hai tập thơ đó là: - Tình cảm đối với thiên nhiên của hai nhà thơ thật phong phú, đa dạng. Đọc thơ Ưng Bình ta bắt gặp những bài: "Vịnh cầu Tràng Tiền", " Chợ Đông Ba", "Chơi thuyền trên sông Hương", "Cầu Lăng Cô", " Dạo chơi cửa Thuận", "Cảnh Tam tòa", "Lầu Ngũ phụng", "Hồ Tịnh Tâm", " Cầu Nông Lợi", "Làng Vĩ Dạ", "Đình Lộc Minh", Làng Thọ Lộc"... (Ưng Bình); "Cầu Trường Tiền", "Chợ Đông Ba", "Sông Hương núi Ngự", "Cầu Đập Đá", " Núi Đá Bạc", "Hồ Tịnh Tâm", "Bến Đò Tuần", Biển Thuận An", "Cảnh Mùa Thu"., "Nhớ cảnh Huế", "Đi dạo núi"... (Nguyễn Khoa Vi. Thiên nhiên Huế rất đẹp dưới con mắt của nhà thơ: Trông ra mặt biển thái bình dương Cảnh Phú Xuân kinh đẹp lạ thường Năm vẻ sáng ngời mây đỉnh ngự Một màu trong vắt nước sông Hương (Phú Xuân kinh: Ưng Bình) Nguyễn Khoa VI trong bài "Đi dạo núi" đã viết: Non xinh xinh nước xinh xinh Bao nhiêu non nước bấy nhiêu tình Ta đây là kẻ ưa non nước Non nước e khi cũng giống mình. Đứng trước cảnh đẹp của đất nước thần kinh Ưng Bình không nén nổi cảm xúc: Kinh hoa đây cũng chốn phồn hoa Có cảnh sông Hương đẹp lắm mà Gió mát trông qua trăng ngoảnh lại Thơ hay gửi tới rượu bày ra. Thật không hẹn mà gặp Nguyễn KHoa Vi ca ngợi cảnh Huế qua bài thơ giàu âm hưởng dân gian: Anh đã vô Nam ra Bắc Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh Đi đâu mình cũng nhớ mình Nhớ sông Hương nước mát, nhớ non Bình trăng trong. Tình cảm đối với thiên nhiên của hai nhà thơ thật dạt dào sâu thẳm. Nhưng do hoàn cảnh phải sống trong hoàn cảnh đất nước chưa được giải phóng, cuộc sống con người bị gò ép, thiếu tự do, hai nhà thơ không tránh khỏi nổi buồn, họ thường mượn cảnh thiên nhiên để giải bày tâm sự, tự an ủi mình. Có thể xem các bài thơ "Đêm năm không ngủ", " Tương tư", "Hoài cảm", (Ưng Bình). "Bệnh tương tư", Cảm tác Thuận An, (Nguyễn Khoa Vi). Xét về đề tài thiên nhiên thì do hoàn cảnh Ưng Bình sống ở nhiều miền đất nước, nên thơ viết về thiên nhiên có chiều rộng hơn: " Một bóng nước hồ gươm", "Một cảnh núi Nùng sông Nhị", "Một núi Hồng sông Lam", "Một cánh buồm Hội An", "Cảnh Sài gòn", "Rạch Giá", " Tháp Cảnh tiên Bình Định", "Động Huyền Không", "Động Phong Nha",... Chẳng hạn như viết về động Phong Nha Quảng Bình, tác giả phải khai thác cảnh đẹp hoang sơ, u tịch của hang động. Gọi tiếng chùa hang ở chốn này. Mười lăm năm trước đã vào đây Rêu in cửa động nhiều thêm vẻ Mà cội bồ đề chẳng đổi thay... E động thiên thai cũng chốn này E chàng Lưu Nguyễn có vô đây Lạc đường ta khỏi như ai trước. Không gặp tiên là rủi hóa may (Chơi động Phong Nha: Ưng Bình). - Tình cảm đối với bạn bè nhân dân: Thơ viết về bạn bè, nhândân là thể hiện một thái độ ứng xử, quan hệ giao lưu, quan niệm sống của một cộng đồng xã hội. Ưng Bình đã có những bài thơ: "Ngày xuân gặp bạn", "Gửi thăm Ngọc Sơn tiên sinh", "Hoạ thơ Đỗ Hữu bảo", "Nhớ Ngư Xuyên", "Nhớ người xưa", "Mời bạn chơi tết", "Họa vần thơ ông Mai Lâm", "Mừng cụ Phú KHê đến Huế", " Mừng cụ Phan Kỉnh Chỉ vô làng thơ Hương ngự", " Mừng Thảo Am Nguyễn Khoa Vi", Nguyễn Khoa Vi cũng viết nhiều bài thơ về tình bạn như: " Trông bạn đường xa", "Đi thuyền cùng bạn cảm tác", "Họa thơ ông Mai Viên", "Đêm nằm nhớ bạn", "Nhắc bạn", "Trách bạn phụ tình", "Hỏi bạn", "Họa thơ cụ Thúc Giạ. Thông thường các bài thơ kể trên, hai tác giải đều ghi lại những ký ức đối với bạn, nổi buồn, niềm vui, khi chia ly, lúc gặp mặt. Được tin Phan Kỉnh Chỉ quê ở Quảng Trị, Tuyết Ngọc quê ở Nghê An, bị mất tin sau cảnh chạy loạn giặc Tây năm 1947, Ưng Bình viết: Nhớ chàng Kỉnh Chỉ non Mai Nhớ cô Tuyết Ngọc ở ngoài sông Lam Cảnh biệt ly ai làm nên nổi Bặt tin hồng biệt hỏi ai đây... Nguyễn Khoa Vi, một lần cùng đi thuyền tiễn bạn lên ga Huế, tình bạn quyến luyến không rời, nhưng bỗng tiếng còi trên ga dục gọi, nhà thơ viết: Thuyền đuổi mép sông cây chảy ngược Gió đè mặt đất, cỏ nằm xuôi Chén đưa rót mãi tình khôn cạn Nông nổi trên ga dục tiếng còi. (Đi thuyền đưa bạn lên ga Huế). Không chỉ viết về tình bạn, hai nhà thơ còn gửi gắm tâm sự, nỗi lòng, tình cảm của mình đối với nhân dân Huế trong cảnh chiến tranh bão lụt, đói kém. Về đề tài này, có nhữung bài như: "Chim khóc tổ", " Phu xe đối đáp", "Giặc Tây bố ráp Vĩ Dạ", "Chuyện người hành khất" (Ưng Bình), "Trời lụt", "Trời bão", "Nhân tình thế thái", "Cảnh trời mưa to gió lớn", "Kỷ niệm ngày 23/5 năm Ất Dậu thất thủ kinh đô Huế", Nước non đâu cũng nước non nhà (Nguyễn KHoa Vi). Xin ghi lại hai bài, bài nói về cảnh chiến tranh của Nguyễn Khoa Vi và cảnh đói kém của Ưng Bình. Nguyễn Khoa Vi viết về cảnh chiến tranh qua bài "Ngày thất thủ kinh đô Huế" như sau: Tháng năm Ất Dậu tối hăm ba Súng nổi vang trời giặc Pháp qua Ngoài phố cửa nhà tan nát sập Trong thành dân sợ lết bò ra Lão thần Tôn Thất không đương lại Ấn chúa Hàm Nghi phải chạy xa Thơ tả đôi câu làm kỷ niệm Nhớ ngày quốc hận Việt Nam ta. (23/5 ngày thất thủ kinh đô - Nguyễn Khoa Vi) Ưnh Bình viết về cảnh đói kém qua bài"Cảm cảnh hành khất ", năm giáp thân: Thấy bạn ăn mày quá tả tơi Câu ca thân dậu hẳn như lời Khó tìm bảy cắc mua lon gạo May được mười xu có củ khoai Cuối chợ đầu đình thương mấy kẻ Trên mền dưới nệm ngỏ cùng ai Rủ lòng bố thí cơn tai nạn Hơn nén hương dâng giữa phật đài (Cảm cảnh người hành khất: Ưng Bình) Thơ tự thuật, khai bút, tự khuyên. Thơ tự vịnh, khai bút, tự khuyên là nét phổ biến chung của các nhà nho như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vi không nằm ngoài thông lệ đó. Thơ tự vịnh, tự thuật, tự khuyên là nhằm khắc hoạ chân dung của chính nhà thơ trong một hoàn cảnh khong gian, thời gian nhất định nhằm gìn giữ điều tốt lành, và loại trừ cái xấu của riêng mình. Có thể nêu ra một số tựa đề như: "Thơ khai bút" "Thơ khai bút năm Tân Tị" " Tết năm Giáp Thân" "Thơ tự thuật bảy mươi", "Thơ lên lão tám mươi", " Tết năm Mậu tý", "Tết năm Đinh sửu". Thơ tự thuật cùng bạn làng thơ nhân dịp đầu xuân"Khai xuân năm Kỷ hợi"(Ưng Bình) "Thơ khai bút nhân dip 75 tuổi", "Thơ đề bức ảnh năm 81 tuổi", "Ăn mừng lễ cửu tuần trước 83 tuổi" "Tự khuyên", "Khuyên đời", "Vịnh cảnh già" (Nguyễn Khoa Vi). Xin trích 2 bài thơ: một của Ưng Bình, một của Nguyễn Khoa Vi. Năm 1959, Ưng Bình 83 Tuổi, Ông tự vịnh: Đính hưu vách mảy lai ngâm nga Tức cảnh câu thi Tết goi là Khỏe cánh tìm hương con bướm liệng Vui lòng rũ bạn tiếng oanh ca Ngành cây cổ thụ đang sây lá Ngọn bút tao đàn cứ trổ hoa Tuổi thọ trời cho ai có hỏi Thưa rằng nay đã tám mươi ba (Khai xuân năm Kỷ hợi(1959): Ưng Bình) Năm 1961, Nguyễn Khoa Vi bước vào tuổi 83, ông có bài thơ "Ăn lễ cửu tuần trước", năm 83 tuổi: Tuổi mình nay mới tám mươi ba Ăn cửu tuần chơi truớc gọi là Đông đủ một bầy con cháu trẻ Dài hơi hai đứa vợ chồng tra Rậm người gẫm lại hơn nhiều của Rộng bụng lo chi nỗi hep nhà Chén rượu câu thơ mừng tuổi thọ Mua vui chung với bạn làng ta (Ăn lễ cửu tuần trước năm 83 tuổi: Nguyễn Khoa Vi) Hai nhà thơ còn làm thơ khuyên con cháu phải biết gìn giữ đạo gia phong" giấy rách giữ lấy lề" đừng làm điều gì hại đến thanh danh gia đình và xã hội: _ Chớ ỷ giàu sang chớ thị quyền Học hành con phải gắng cho chuyên Hiếu trung hai chữ ngàn thu rạng Sẵn tám gương soi đạo thanh hiền (thơ Ưng Bình) _Trót đã xông pha với lửa than Nay đà rõ mặt giống da vàng Hai vai trung hiếu con còn gánh Một khối ân tình mẹ vẫn mang (thơ Nguyễn Khoa Vi) II. Nét riêng: 1. Thơ trào phúng của Nguyễn Khoa Vi. Đề tài chủ đề trong thơ Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vi có điểm giống nhau, nhưng cách thể hiện có khác nhau. Ưng Bình chủ yếu là nhà thơ trữ tình (có lúc nhà thơ có chút châm biếm nhưng khuynh hướng chung trữ tình, xem thêm bài thơ "Con bướm bướm") (1). Nguyễn Khoa Vi có ít thơ trữ tình nhưng khuynh hướng chủ yếu là thơ trào phúng (2). Lựa chọn một bút pháp nào đó là do hoàn cảnh, tính cách, sở trường khiếu thẩm mỹ của người ấy tạo nên.
Nghệ thuật trào phúng của Nguyễn Khoa Vi biểu hiện ở cách khai thác sử dụng các thể cách của thơ Đường, thơ thất ngôn, tứ tuyệt, thủ vì liên hoàn, thủ vị liên hoàn điệp dụng, song thanh điệp vận, yết hậu, nói lái, hạn chữ, hạn vần, độc vận, hài hước....tất cả đến 17 thể cách. Nội dung châm biếm, trào phúng dưới nhiều góc độ khác nhau: một kẻ si tình, một nhân tình già, một ông quan lười biếng, một kẻ tham lam, một kẻ nịnh hót, "ngọng miệng xôi chùa, dở hoá ngon",một kẻ nham hiểm" mặt ngựa đầu trâu", có khi đã kích cả tên mật thám(4)" giả vờ làm am thơ Phật" để che mắt thiên hạ... Sau đây là một số cách thể hiện ngòi bút trào phúng của Nguyễn Khoa Vi: Thơ yết hậu: Làm câm Hay ăn thì hay đói Hay nói lại hay lầm Lỡ miệng không bưng kịp Làm câm. Thơ độc vận: Trách kẻ đa tình Chạy chửa chai chân chẳng chịu chừa Chín chìu chua chát chán chê chưa Cha chài chú chóp chơi chung chạ Chả chính chuyên chi chớ chực chờ - Thơ nói lái: Trách vợ già hay ghen Mơi tra chiều hỏi chuyện ma trơi Trời đe ghen chi cứ trẻ đời Cớ sự làm sao mà cứ sợ Dời chưn không kịp đứng dừng chơi _Thơ hạn vần: (hạn dấu huyền, sắc, nặng,hỏi) Huyền diệu trông lên cửa đạo thiền Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết Hỏi mấy ai đà có thiện duyên _Thơ hài hước: Cái quạt: Mới nắm trăng ra đã thấy duyên Hèn chi thiên hạ tốn đồng tiền Trong cơn nóng nảy ai ai cũng Thao thức không thời đố ngủ yên Cái tài châm biếm của nhà thơ thể hiện ở chỗ nói mập mờ hai mặt nói về con vật nhưng ám chỉ thói xấu của một lớp người trong xã hội. Bài" Tâm tướng người xấu", thuộc loại thơ hạn vật mỗi câu có tên, hai con thú, là một bài thơ có giá trị châm biếm cao: Tâm tính người xấu: Ngồi nhăn răng khỉ chổng râu dê Tưởng cóc hình mang ngó gớm ghê Đã buộc cổ mèo treo cổ chó Còn tham con diếc tiếc con trê Miệng hùm gan thỏ người khinh bỉ Mặt ngựa đầu trâu chúng nhạo chê Vẻ rắn vẻ rồng khoe tốt đẹp Lòng lang dạ hổ có ai dè Qua một số dẫn chứng nói trên đã khẳng định được nghệ thuật thơ trào phúng tài tình của Nguyễn Khoa Vi 2. Tuồng của Ưng Bình. Tuồng là một thể loại nghệ thuật phát triển cao dưới triều Nguyễn. Triều Nguyễn lập hẳn một cơ quan trong cung đình lo biểu diễn tuồng. Đào Tấn là nghệ sĩ xuất sắc về tuồng. Ưng Bình cũng có sở trường về tuồng, ông đã sáng tác hai vở tuồng có giá trị, đó là vở tuồng Lộ Địch và tuồng Tào Lao. Tuồng Lộ Địch (Le cid) tác giả soạn dựa vào vở kịch Le cid của Corneille có cải biến ít nhiều về lớp lang nhân vật để phù hợp với tuồng hát Việt nam. Nội dung ca ngợi tình và hiếu của hai nhân vật Lộ Địch (Rodrigue) và Chi Manh (Chimène). Vở tuồng có ba hồi 16 màn đã được công diễn ở Huế trước Cách mạng tháng 8. Tuồng Tào Lao. Nội dung vở tuồng viết về nhân vật Tào Lao đa tình hiếu sắc. Một hôm anh ta đến miếu Ba Tiêu bất ngờ gặp cô Dương Liễu xinh đẹp đang dâng hương ở miếu, anh ta đem lòng yêu mến. Anh ta bèn đóng giả vị thần linh ngồi ở miếu, truyền báo cho Dương Liễu sẽ kết hôn vơi Tào Lao. Dương Liễu tin là sự thật, bèn theo Tào Lao về trình với cha mẹ Tào Lao. Lúc đến nhà thì Dương Liễu biến thành con cọp, cha mẹ Tào Lao rất sợ hãi. Quan sở tại biết được câu chuyện có vẻ ly kỳ đó, cho đoan do thám đến xem xét câu chuyện thực hư thế nào. Đoàn do thám bắt Tào Lao giải lên huyện đường để điều tra sự trạng. Giữa đường Tào Lao phát điên ca hát rộn ràng. Vừa vặn lúc bấy giờ, có xa giá của Hoàng phi (vợ Hoàng thái tử) trên đường về quê. Hoàng phi nghe lời ca tiếng hát có vẻ chân thành động lòng trắc ẩn, bèn truyền tha tội cho Tào Lao, lại còn cho vàng bạc nữa. Tào Lao vui mừng hết điên, trở thành trạng thái bình thường, lương thiện. Vậy Hoàng phi là ai? Hoàng phi chính là Dương Liễu. Dương Liễu hoá thành cọp rồi hoá thành Hoàng phi, thật là biến hoá khôn lường. Tuy câu chuyện có nhiều tình tiết biến hoá ly kỳ nhưng có nghĩa có tình, thuận theo lòng người, nên được xem là vở tuồng có giá trị. Vở tuồng có 12 hồi, có nhiều làn điệu ca Huế quen thuộc. Rõ ràng, hai nhà thơ Huế vừa có nét chung, nét riêng, mỗi người có một phong cách riêng. Ưng Bình thiên về trữ tình, tính trữ tình trong thơ Ưng Bình là nhất quán, âm hưởng nhẹ nhàng tình tứ. Nguyễn Khoa Vi vừa có trữ tình nhưng chủ yếu vẫn là trào phúng châm biếm. Trong thơ Nguyễn Khoa Vi có vận dụng nhiều thành ngữ tục ngữ. Hai nhà thơ là thành viên của Hương Bình thi xả (Ưng Bình làm chủ soái). Hai nhà thơ có mối quan hệ khắng khích thân mật thường xướng họa lẫn nhau. Có khi cả hai nhà thơ cùng sáng tác một bài (Núi Ngự không cây Sông Hương vắng khách). Hai nhà thơ đều khâm phục tài lẫn nhau. Ưng Bình có nhận xét về Nguyễn Khoa Vi qua bài: "Phẩm đề": "Khen rằng thị liệu đủ nghề Phong tao lắm vẻ hoạt kê cũng tài. Nguyễn Khoa Vi trong bài "Văn tế sống Ưng Bình" đã nêu lên đức độ cuộc sống "thanh bạch" của Ưng Bình xứng đáng là con cháu của "Tuy Lý phủ gương xưa" một con người: "Làm thi ca đầy đủ tính tình Đặt tuồng văn rành rành tình điệu" Ưng Bình và Nguyễn Khoa Vi là hai nhà thơ lớn, góp phần xứng đáng vào truyền thống văn hóa xứ Huế. N.X.H Tháng 4-2000 (139/09-00) -------------------------------------- (1) Xem “Hồi ức về cha tôi Ưng Bình Thúc Gịa Thị” của Tôn Nữ Hỉ Khương (NXB Văn gnhệ thành phố Hồ Chí Minh, bài "Mình yêu hoa nó cũng yêu hoa”, trang 32) (2) Xem thêm bài "Nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Vi - Nguyễn Xuân Hòa trong sông Hương số 2 (45) tháng 3 năm 1991). (3) Xem lời bình thơ Thảo Am (thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Sở văn hóa Thông tin Huế, in năm 1991). (4) Xem thơ Thảo Am - Nguyễn Khoa Vi, trang 89. Sách đã dẫn. |
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.