NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nếu tôi không nhầm thì phần lớn bạn đọc chưa hề biết tên bà Cao Ngọc Anh; nói chi đến việc nên hay không nên dành cho bà một vị trí trong làng thơ Việt Nam.
Chân dung nữ sĩ Cao Ngọc Anh - Ảnh: wiki
Bản thân tôi, cũng chỉ mới biết đến bà một năm trước, trong lúc tìm tư liệu viết cuốn sách về cụ Lê Văn Miến* - người họa sĩ đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris, người thầy gần gũi nhất với cậu học sinh Quốc học Huế Nguyễn Tất Thành, vị Tế tửu trường Quốc Tử Giám Huế trong gần một thập kỷ. Và tôi cũng chỉ mới biết về đường tình duyên của bà. Do chỗ cụ Lê Huy Nghiêm (thân phụ họa sĩ Lê Văn Miến) và cụ Cao Xuân Dục (thân phụ bà Cao Ngọc Anh) cùng là người xứ Nghệ, lại cùng đỗ đồng khoa cử nhân, nên hai nhà đính ước kết nghĩa thông gia. Nhưng sau một thời gian ở Pháp, Lê Văn Miến viết thư về bày tỏ thiệt hơn cùng hai gia đình: Nào là đôi bên không “môn đăng hộ đối” - gia đình cụ Cao giàu có, thế gia vọng tộc, bên họ Lê thì nhà nghèo, quan nhỏ - bản thân thì đang du học ở xa, chưa biết lúc nào về, chẳng nên bắt Cao tiểu thư chờ đợi lâu... Về sau, cụ Cao Xuân Dục gả bà Ngọc Anh cho ông Nguyễn Huy Nhiếp, án sát tỉnh Sơn Tây, nhưng số phận éo le, bà sinh được 3 người con thì ông Nguyễn Huy Nhiếp qua đời, khi bà chưa đầy 30 tuổi!... Về sự nghiệp văn thơ tôi mới chỉ nghe bác Lê Văn Yên - con trai cụ Lê Văn Miến, nhận xét rằng: “Bà Cao Ngọc Anh là một nữ sĩ nổi danh một thời đất Hồng Lam...”
Cho đến gần đây, tình cờ tôi được đọc tạp chí “Phổ thông” (xuất bản tại Sài Gòn năm 1959), trong mục “Các thi sĩ cuối cùng của thế hệ lão thành”, tác giả Diệu Huyền đã đánh giá cao nghệ thuật thơ cũng như vị trí của bà Cao Ngọc Anh trong làng thơ Việt Nam với nhiều căn cứ rất đáng để các nhà nghiên cứu văn học hôm nay tham khảo, xét định khi muốn dựng lại đầy đủ chân dung văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20.
Sinh trưởng trong một gia đình danh nho, hẳn là bà làm thơ từ nhỏ, nhưng đến năm 1953, khi đã trên 70 tuổi (bà sinh năm 1877), bà Cao Ngọc Anh mới xuất bản tập “Khuê sầu thi thảo”, tuyển chọn vào khoảng 80 bài thơ chữ Hán và quốc ngữ hay nhất của mình. Trong lời đề tựa, cụ Trần Trọng Kim cho rằng thơ của bà Cao Ngọc Anh “cùng một giọng điệu, cùng một khẩu khí với thơ của Bà Huyện Thanh Quan, nhưng thơ của bà thi sĩ họ Cao lại đầy đủ, văn từ sung thiệm, ý tứ bóng bẩy và nhẹ nhàng hơn”.
Tất nhiên, nhận định trên cũng chỉ là căn cứ để tham khảo. Điều chủ yếu vẫn là phải xem xét, bình phẩm trực tiếp từ tác phẩm. Sự nghiệp thơ của bà Cao Ngọc Anh gồm cả thơ viết bằng chữ Hán và thơ viết bằng quốc ngữ. Tuy với số đông độc giả hiện nay có lẽ chỉ nên đưa ra “làm chứng” những bài thơ viết bằng quốc ngữ, nhưng xin dẫn ra đây một bài thơ tứ tuyệt để thấy tài thơ chữ Hán của bà Cao Ngọc Anh cũng không tầm thường.
ĐÀO HOA KHẨU CHIẾM
Tích niên lang tháp song đào thụ,
Kim kiến đào hoa bất kiến lang.
Giải sứ hoa thần như hữu thúc,
Vị lang tiều tụy giảm dung quang.
Tác giả đã tự dịch ra tiếng Việt như sau:
Song đào chàng mới trồng năm trước
Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng.
Ví khiến thần hoa như có biết,
Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng?
Bài này đăng trên tạp chí Nam Phong năm 1926 đã khiến giới văn học ở Hà Nội lúc đó chú ý đến nữ sĩ Ngọc Anh cả về trình độ Nho học và cách thể hiện tình cảm sâu sắc qua mấy vần thơ. Tứ thơ “Đào hoa khẩu chiếm” gợi nhớ đến bài thơ “Đề Đô thành Nam Trang” của Thôi Hộ. (Bộ phim “Nhân diện đào hoa” chiếu trên truyền hình vừa qua được dựng từ tứ thơ này).
Trong phần thơ viết bằng quốc ngữ, chỉ đọc bài “Vịnh cảnh hoàng hôn” sau đây, đã thấy nhận xét của cụ Trần rằng “thơ của bà Cao Ngọc Anh cùng một giọng điệu, cùng một khẩu khí với thơ của bà Huyện Thanh Quan” là đúng:
VỊNH CẢNH HOÀNG HÔN
Còn trời còn đất, hãy còn ta.
Chân cứng lo chi bóng xế tà,
Nhớ mẹ thêm rầu khi sớm tối
Thương con nào quản nỗi gần xa.
Giám sai lời hẹn cùng non nước,
Cũng ngượng vui cười với cỏ hoa
Phong cảnh buồn trông nơi đất khách,
Chiều hôm lác đác hạt mưa sa.
Bài thơ vịnh cảnh Ngũ Hành Sơn cũng là một bài thơ hay của bà và cũng giọng điệu với bài trên:
Nghe nói Hành Sơn cảnh tuyệt vời.
Cõi trần dạo bước thử xem chơi
Năm hòn chót vót cây chen đá
Bốn mặt mênh mông nước lộn trời.
Bãi cát trắng phau cơn gió bụi
Chòm râu xanh ngắt bóng trăng khơi,
Ngự thi nét bút còn như vẽ.
Dâu bể bao phen đã đổi dời!
Nếu chỉ căn cứ vào 2 bài thơ vừa dẫn thì có lẽ cái vế sau trong nhận xét của cụ Trần rằng so với thơ bà Huyện Thanh Quan, thơ của bà Cao Ngọc Anh “đầy đủ, văn từ sung thiệm, ý tứ bóng bẩy và nhẹ nhàng hơn” chưa hẳn đã chính xác. Tuy vậy, sự nghiệp thơ của bà Cao Ngọc Anh gồm đến 80 bài, trong đó phần thơ viết bằng chữ Hán cũng rất đáng kể. Hơn nữa, bà Cao Ngọc Anh còn những bài thơ với “giọng điệu” khác, ví như bài thơ sau đây:
ĐÁP LẠI NHỮNG AI CHO LÀ NGẠO ĐỜI
Ai bảo là ta tính ngạo đời,
Khinh đời vẫn khó, há rằng chơi.
Khinh người lắm của, còn ham của,
Khinh kẻ cao ngôi chẳng xứng ngôi.
Khinh gái chung tình chung cửa miệng.
Khinh trai ái quốc ái đầu môi.
Có khinh chăng nữa là khinh thế
Nào giám khinh đâu khắp mọi người.
Bài thơ hoàn toàn không còn chút nào cái vẻ u sầu man mác dịu nhẹ như hai bài vịnh cảnh ở trên mà là khẩu khí của một con người có bản lĩnh, không chịu nhún nhường trước những điều sai trái. Và mặc dù hơn nửa thế kỷ đã qua, bài thơ vẫn như “mới”, như nói về cuộc đời hôm nay. Nói chính xác là bài thơ đã diễn tả một cách khái quát nhân tình thế thái của mọi thời, nên lúc nào cũng “mới”.
Tôi không phải là người sành bình phẩm về thơ phú. Nhưng từ những căn cứ vừa dẫn, tôi cứ băn khoăn không hiểu vì sao mấy chục năm qua, hầu như trên các sách báo nghiên cứu văn học, không ai nhắc đến bà Cao Ngọc Anh.
Tôi rất mừng là bài báo chưa kịp đưa in thì đầu năm 1997 này, trong tập “Tuyển 1000 năm thơ tứ tuyệt Việt Nam” của Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên, có in hai bài thơ tứ tuyệt và sơ lược tiểu sử bà Cao (Thị) Ngọc Anh, do các tác giả được người cháu gọi bà CNA là cô ruột tặng tập thơ “Khuê sầu thi thảo”. Đồng thời, trong tập “Cụ Hoàng Nho Lâm” viết về Hoàng giáp Đặng Văn Thụy (NXB Văn hóa Thông tin - 1997) có một giai thoại liên quan đến bà CNA như sau:
Hoàng giáp Đặng Văn Thụy là anh rể bà CNA. Sau khi chồng bà CNA qua đời, nhiều danh sĩ lúc bấy giờ muốn ngấp nghé, nhưng đều bị bà cự tuyệt. Thấy ông Hoàng thường nhắc chuyện này, một hôm bà Hoàng nguýt ông và nói: “Nếu ông bằng lòng, tôi sẽ nói với dì nó cho ông. Ông Hoàng trả lời ỡm ờ: “Cái đó thì tùy bà...” Trong xã hội ngày xưa, việc hai chị em chung chồng không phải là hiếm, nên bà Hoàng kể lại với em câu chuyện trên. Bà CNA mỉm cười, xin về suy nghĩ và sau đó, gửi cho ông anh rể (còn gọi là cụ Tế - vì Đặng Văn Thụy cùng giữ chức Tế tửu Quốc Tử giám Huế) bài thơ như sau:
Anh Tế nhà ta khéo ỡm ờ
Phong tình quen thói lại lơ mơ
Rượu ngon uống hết không chừa cặn
Mít ngọt quen mùi đánh cả xơ
Duyên chị trước đà xe chỉ thắm
Tình em nay muốn chắp dâu tơ
Cho hay quân tử là thế thế
Chị cũng ưa mà em cũng ưa!
Chuyện vui mà bài thơ càng chứng tỏ tài thơ của bà CNA, xin dẫn ra để bạn đọc cùng biết. Dù sao hai tập sách kể trên cũng chỉ là công trình của cá nhân, nên việc xem lại vị trí của bà CNA trong làng thơ Việt Nam một cách “chính danh” vẫn là cần thiết. Chẳng lẽ vì tập “Khuê sầu thi thảo” in ở Sài Gòn khi thành phố còn bị giặc Pháp tạm chiếm nên giới nghiên cứu (nhất là ở miền Bắc) ít chú ý tới? Hay là vì đã tôn vinh bà Huyện Thanh Quan nên chẳng cần đến “bà Án” Ngọc Anh nữa? Thiết nghĩ, cho dù tài thơ “bà Án” không bằng bà Huyện, cũng không nên vì thế mà loại trừ nhau. Không phải vì đã có Vân Đài nên không cần nhắc đến Hằng Phương nữa. Nghệ thuật vốn đa dạng và phong phú. Vả chăng, số nhà thơ nữ thời kỳ mấy thập kỷ đầu thế kỷ này hình như chỉ đếm được trên các ngón tay, nên việc “xem lại” vị trí của bà Cao Ngọc Anh trong làng thơ Việt Nam hẳn cũng đáng bàn.
Rất tiếc là tôi không có được tập “Khuê sầu thi thảo” trong tay để rộng đường bình luận. Tôi đã tìm đến hai người cháu gọi bà Cao Ngọc Anh bằng “cô”, hiện ở Huế, đến Thư viện Huế và Thư viện Trung ương Hà Nội, nhưng không đâu có tập “Khuê sầu thi thảo”. Tuy vậy, tôi tin là tập thơ vẫn còn được giữ lại trong một số tủ sách ở Thành phố Hồ Chí Minh nơi nó đã ra đời 44 năm trước; và hy vọng qua bài viết này, tập “Khuê sầu thi thảo” sẽ có ngày được giới thiệu với đông đảo bạn đọc cả nước.
N.K.P.
(TCSH99/05-1997)
--------------------
* Lê Văn Miến, người họa sĩ đầu tiên, người thầy đầu tiên - NXB Thuận Hóa, 1995.
PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.
THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.
LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.
TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)
THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.
THI THOẠI Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.
ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.