Nên bài xích lối văn không thành thực

11:03 09/10/2008
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

Sau 6 năm viết báo trên đất Sài Gòn, khoảng tháng 3/1933, Phan Khôi trở ra Quảng Nam nghỉ ngơi tại quê nhà ít lâu rồi ra Hà Nội. Ở đây, từ tháng 5 đến tháng 7/1933, dưới bút danh Bướng Nhân ông viết cho Thực nghiệp dân báo trong mục “Bướng Nhân nhật ký”. Sau đó, ông và Tế Xuyên nhận lời với ông bà Nguyễn Văn Đa chủ báo Phụ nữ thời đàm đứng ra đảm nhiệm tờ này, đổi nó từ thể tài nhật báo sang thể tài tuần báo. Phụ nữ thời đàm tập mới đánh số lại từ số 1 (17/9/1933); Phan Khôi có bài đăng liên tục trong 22 số đầu, ký Phan Khôi, C.D., Hồng Ngâm, Tú Xơn; Phan Khôi quen biết Vũ Trọng Phụng có lẽ cũng từ hồi làm tờ báo này (họ Vũ đăng tiểu thuyết Dứt tình và viết phóng sự Vẽ nhọ bôi hề cho tờ này). Đến hết số 26 (5/6/1934) thì tờ này cũng phải đóng cửa, hình như do thua lỗ. Chưa rõ Phan Khôi còn viết cho tờ báo nào ở Hà Nội trong khoảng giữa năm 1934 hay không, nhưng chắc chắn là đầu năm 1935, ông vào Huế làm báo.  

Hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1/3/1935 là tờ La Gazette de Hue (chữ Pháp) ra hàng tuần, tờ Tràng an (chữ Việt) ra 2 kỳ/tuần; chủ nhiệm cả hai tờ là Bùi Huy Tín; vai trò chủ bút tờ Tràng an báo được giao cho Phan Khôi. Ngoài các bài xã thuyết về thời sự xã hội ký tên Phan Khôi, ông còn mở nhiều mục cho các loại bài phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”, “Nhớ đâu nói đó”, ông viết và ký Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện rông” cho Hoài Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồi mục mở cho ngòi bút của Tiêu Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân, Hương Giang Thiếu Niên (chưa rõ bút danh của ai), v.v…; quan hệ tốt giữa ông với cây bút trẻ Hoài Thanh từ Nghệ An vào cũng bắt đầu ở tờ báo này; chính tờ báo đã lên tiếng chúc mừng lễ cưới của người trợ bút báo mình là Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh) với cô Phan Thị Nga, con gái một y sĩ ở Hội An (Tràng an 30/9/1935); tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng bài của Hoài Thanh trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật/ vị nhân sinh”; chính báo này đã ra số đặc biệt về ngày thất thủ kinh đô 23 tháng Năm năm Ất Dậu với các bài chủ lực của Phan Khôi và Hoài Thanh (Tràng an, 21/6/1935)…

Nhưng chính bài báo tôi giới thiệu dưới đây lại khiến Phan Khôi phải thôi chân chủ bút Tràng an, để ít lâu sau ra tờ Sông Hương, cũng tại Huế, do chính ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút (ra được 32 số, từ 1/8/1936 đến 27/3/1937; sau đó bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu). Đó là nói vắn tắt về ba năm (1935-1937) Phan Khôi làm báo ở Huế.
Trở lại với bối cảnh của bài báo sẽ in dưới đây; khoảng cuối năm 1935, trong nội cung triều Huế có sự kiện là đám tang bà nội vua Bảo Đại; nhân đấy giới quan chức Nam triều tôn dâng khá nhiều bài văn phúng viếng. Phan Khôi đã chọn đăng trên báo mình một bài và sau đó đăng bài phê bình của mình, liền hai kỳ, trên số Tràng an cuối cùng của năm 1935 và số đầu tiên của năm 1936. Hẳn là bài báo đã gây phản ứng mạnh trong giới quan chức triều Nguyễn, vì chỉ một tháng sau, Tràng an ngày 4/2/1936 đã thông báo “vì một lẽ riêng, từ nay ông Phan Khôi thôi làm chủ bút bản báo”. Mấy tháng sau, từ 9/6/1936, Hoài Thanh và Phan Thị Nga cũng nói rõ trên tờ này rằng đã không còn làm trong toà soạn Tràng an nữa.

Tư tưởng về sự thành thực trong văn chương mà lâu nay ta chỉ được biết do những người như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều đã thể hiện trong cuộc tranh luận với phái “vị nhân sinh”; nay với việc biết đến bài báo này, cần khẳng định rằng, trong phạm vi văn học sử Việt Nam thế kỷ XX, tư tưởng về sự thành thực trong văn chương có xuất xứ từ Phan Khôi, rằng Phan Khôi mới là người có bản quyền đích thực của tư tưởng ấy.
Về văn bản bài báo, vì số báo này nằm ở cuối bộ sưu tập Tràng an năm 1935 nên phần đầu bài báo (vốn được in ở phần trên của trang cuối) bị rách mất không ít (ước chừng mất 6 dòng, khoảng 40 từ); tên bài báo cũng bị mất, may mà có thể tìm lại ở kỳ đăng thứ hai trong bộ sưu tập Tràng an tiếp theo của năm 1936. Nhân công bố tư liệu này, tôi đề nghị bạn nào có nguồn bổ túc các đoạn còn thiếu ở bài này, xin cho chúng tôi biết.
LẠI NGUYÊN ÂN 
[……………………………………………………………………………………………….………………………………………………………………………………………………..………………………….........................……….] những bài văn không thành thực.

Và văn học là để biểu hiện nhân sanh và phê bình nhân sanh. Một nền văn học có giá trị, chẳng khác gì hơn là sự biểu hiện và sự phê bình của nó được đúng. Mà muốn như thế thì trong văn học phải chuộng sự thành thực làm đầu. Trái lại, không chuộng thành thực thì trong sự biểu hiện và phê bình đều là giả dối sai lầm cả, cái văn học ấy đã đành là không tiến bộ mà cũng trở nên vô giá trị nữa.
Tôi từng quan sát cái hiện trạng văn học xứ ta từ trước đến giờ, thấy được chỗ trở ngại ấy nên đã nhiều lần bàn với anh em làng văn rằng chúng ta cần phải đề xướng cái chủ nghĩa thành thực trong văn học mới được. Trong lúc dự bị làm công việc ấy, tình cờ gặp một dịp tốt khiến tôi có thể đem ý đó phát biểu ra đây.
Trong phụ trương Tràng an số 86 vừa rồi có đăng bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch. Các bạn đọc đối với bài văn ấy, những người có óc cũ có lẽ sẽ hoan nghinh, nhưng những người có tư tưởng mới hẳn là không chịu nó cũng như chúng tôi không chịu nó. Đã không chịu nó mà còn đem đăng lên báo, chẳng qua chúng tôi muốn có cớ để phát luận hôm nay.  

Theo lối văn chương cũ mà nói thì bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch đó không phải là hay nhưng cũng không đến nỗi dở. Nó là một bài văn sàng sàng, “vô cửu vô dự”. Nhưng khi phê bình nó ở đây, chúng tôi không kể đến sự hay dở mà chỉ kể đến chỗ nó có đứng được hay không đứng được mà thôi. Nghĩa là chúng tôi không nói đến phương diện nghệ thuật của nó mà chỉ nói đến cái tánh chất của bài văn.
Làm một cái kết luận sớm ở đây, tôi muốn nói ngay rằng bài văn của ông Nguyễn Mộng Thạch không đứng được, vì nó đeo một cái tánh chất hư ngụy, không thành thực.
Ở thế gian này bất kỳ cái gì giả dối đều không đứng được thì bài văn giả dối tất nhiên cũng không đứng được. Phận sự nhà văn chúng ta là phải hết sức bài xích những bài văn như thế, đừng cho nó lưu truyền ra trong văn giới.                

Thế nào là gọi bài văn ấy là không thành thực?
Trước hết nói về cách dùng chữ. Trong bài văn ấy tác giả chỉ dùng những chữ cho đẹp cho kêu chớ không cốt ở nghĩa lý có đúng cùng chăng. Đại khái như câu mở: Lầu phụng mưa chan, đài loan tuyết ủ, thì lầu phụng là lầu gì và đài loan là đài gì? Đã đành rằng phụng đối với loan thì đẹp và cân lắm nhưng còn nghĩa nó thì sao? Huống chi xứ ta từ xưa đến nay chưa hề có tuyết thì làm sao lại nói được rằng “tuyết ủ”? Tuy vậy những câu ấy chưa đáng tội gì mấy. Tác giả vì ham những chữ cho đẹp, đối nhau cho cân mà đã đặt ra những câu phạm tội nặng hơn, tức là cái tội vô nghĩa. Ấy là như câu “bể ái lưng vơi thành sầu xô đổ” thì còn có nghĩa gì? Xét lại bản ý của tác giả là cốt đem hai cái thành ngữ “bể ái” và “thành sầu” để đối với nhau nghe cho rột rạt mà thôi.

Thứ đến những chỗ kể đức tánh của đức Thánh Cung, nghe ra cũng vô vị nữa. Có lẽ tác giả tự cho rằng ca tụng một bà vua như vậy là đắc thể, nhưng theo chúng tôi tưởng thì thật chẳng có chút giá trị nào. Như những câu: “Nết đất từ hiền, tư trời nhân hậu… Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ” thì dùng mà hình dung cái đức tánh của bà vua nào chẳng được, hà tất đức Thánh Cung?
Theo cái quan niệm về văn nghệ của chúng tôi, khi muốn biểu hiện cái đức tánh bình sanh của một người nào thì phải lấy những cái đặc tánh của người ấy mà biểu hiện. Khi nhận thấy người ấy không có cái đặc tánh gì hoặc có mà mình không nhận thấy được thì thà đừng biểu hiện còn hơn. Như thế, sự biểu hiện của văn nghệ mới có giá trị.
Còn tác giả đây hình như không nghĩ như chúng tôi vậy. Tác giả không cần nhận thấy đức Thánh Cung có đặc tánh gì cả, khi cầm bút tán dương ngài thì cứ khuân bao nhiêu những hình dung từ tốt cho đàn bà mà để vào đấy thôi. Bởi vậy những chữ “hiền từ, nhân hậu, đoan trang, trinh liệt” mới rủ nhau ra đứng sắp hàng trên mặt giấy! Như thế là lạm dụng. Khi một nhà văn đã lạm dụng những hình dung từ như thế thì thường thường phạm phải điều lỗi bởi sự bất ngờ. Tức như hai chữ “trinh liệt” ở đây là một cái lỗi lớn không tày đình cũng tày líp!

“Trinh liệt” là chữ để hình dung người đàn bà hay thủ tiết, thường khi là hy sinh tánh mạng để phản kháng sự cường bạo hoặc để tỏ lòng mình, như bà Nguyễn Thị Kim trầm mình, bà mẹ ông Bố Cao cắt vú mới đáng gọi là trinh liệt. Vậy thì đức Thánh Cung, theo cái địa vị của ngài và cái hoàn cảnh của ngài, làm thế nào cho ngài có cái đức “trinh liệt” ấy được ư? Cái đức ngài không thể có mà nhà văn trở đem gán cho ngài, điều ấy chẳng những là không thực mà người ta còn có thể gọi là “hót nhảm” được nữa!
Ông Nguyễn Mộng Thạch hẳn là một nhà nho, ông đã nhiễm cái thói ca tụng đế vương trong kinh điển. Kinh Thư ca tụng vua Nghiêu không còn sót một cái đức tốt nào là không có: khâm, minh, văn, tứ, doãn, cung, khắc nhương, rồi sau đến nải thánh, nải thần, nải võ, nải văn. Cũng bới những sự không thành thực ấy tràn ngập trong tư triều văn học nước ta, thành thử từ xưa đến nay các nhà văn đều mắc trong vòng giả dối mà không tự biết và cũng không tự thoát ra được. Kỳ thực, vua Nghiêu dù là người tốt cũng không có thể gồm đủ cả các tánh tốt của loài người như Kinh Thư nói; đức Thánh Cung dù có đức tánh hơn người cũng không phải là mọi nết mọi hay và hay đến cả cái không thể có được như ông Nguyễn Mộng Thạch tán dương đâu.

Thứ đến những chỗ kể công nghiệp của đức Thánh Cung, khiến kẻ đọc, ai có lương tâm, đọc đến đều phải lấy làm hổ thẹn, vì theo người quân tử, điều không có mà mạo nhận là có, chẳng gì đáng ngượng bằng.
Trong cả bài duy có câu này là dài hơi, dào ý, đối lại chỉnh nữa, có lẽ là câu tác giả dụng lực hơn hết, mà cũng duy có câu này là câu không thành thực hơn hết:
“Đoan đích Tiên triều noi dấu, lúc ở Tôn lăng lúc về cẩm điện, mực thước rõ ràng vẻ ngọc, cửa cung vi bền vững đến ngày nay;
Gian nan đại nghiệp dựng gầy, khi giao quý quốc khi ngự nội đình, phép khuôn đứng đắn lời tơ, nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”.
Vế trên cũng cho được, thôi chẳng nói làm chi; duy vế dưới là đáng trách, mà đáng trách nhất là những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”.
Vả đức Thánh Cung được tuyển vào cung làm chánh phi triều Đồng Khánh, sau khi vua Cảnh Tôn băng, đáng lẽ con ngài là đức Khải Định được nối ngôi, mà đức Khải Định đã không được nối ngôi, thì đức Thánh Cung cũng phải về ở theo Tôn lăng. Đến ngày vua Duy Tân bị phế, đức Khải Định lập lên, bấy giờ đức Thánh Cung mới được lại vào ở trong Đại nội. Thế thì đừng nói việc lớn lao làm chi, cho đến việc được ở trong Đại nội hay bị ra là việc nhỏ mọn mà đức Thánh Cung cũng không tự chủ được, phải theo chồng theo con như một người đàn bà thường khác. Người đàn bà ấy, lạ thay, sao tác giả lại phóng đại cho bằng những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”?

Đại nghiệp tức là ngôi vua chớ gì? Đức Thánh Cung đã hề gầy dựng cái đại nghiệp ấy lúc nào? Kể một đời ngài: khi chồng làm vua thì ở chốn cung vi, khi con không được làm vua thì lui về nơi lăng tẩm, đến khi con được làm vua kế tới cháu thì ngài lại vào ở chốn cung vi rồi qua đời tại đó, nhưng cái ngôi vua ấy có phải chính tay ngài đã sáng tạo ra cho con cháu ngài đâu? Sự gầy dựng đã không, tự nhiên cũng chẳng có gì là gian nan nữa hết.  
Bốn chữ “khi giao quý quốc” cũng to quá. Quý quốc chẳng là nước Pháp. Đức Thánh Cung có khi nào đứng ra giao hảo với nước Pháp đâu? Các quan Toàn quyền, Khâm sứ đôi khi vào yết kiến ngài, những khi ấy ngoài sự giao tế cá nhân hẳn có đại biểu cho cả một nước Pháp chăng nữa, là cũng không được nhân đó mà nói rằng đức Thánh Cung giao với nước Pháp.

“Nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”
, tác giả đã biết nói như vậy thì hẳn cũng biết cái lối cũ ấy nó là thế nào chớ. Theo Lễ, “lời nói ở trong chẳng ra đến ngoài”; theo Xuân Thu, “đàn bà không được giao với ngoại quốc”, vậy mà tác giả bảo đức Thánh Cung giao với nước Pháp, chẳng là vứt đi đâu mất cái lối cũ ấy còn gì?
Cái nghề hễ nói dóc quá rồi không tài nào giữ được, có khi chính mình lại mâu thuẫn với mình. Ở đây tác giả là ông Nguyễn Mộng Thạch chính đã phạm vào sự đáng kiêng kỵ ấy.  
Tiếp một câu nữa cũng kể công nghiệp đức Thánh Cung mà cũng không đúng lấy một chút nào:
“Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận, đình thần ai nấy khâm tuân;
Đến lúc nay giá phản bản triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đều từ mộ”.                    

Đức Khải Định cùng đức Bảo Đại đều có ngự du ngoại quốc, nhưng đây chắc là nói về đức Bảo Đại. Theo thực sự, khi đức Bảo Đại ở bên Tây bảy tám năm, đức Thánh Cung ở nhà chẳng hề có khi nào “thay quyền nội trị” hết. Vì bản triều từ xưa có điều răn: “Mẫu hậu không được lâm triều thính chánh”, điều răn ấy lợi cho người ta thì bao giờ người ta cũng giữ. Huống chi gần nửa thế kỷ nay, quyền nội trị của nước Đại Nam là xứ Trung Kỳ này dần dần nắm cả trong tay chánh phủ bảo hộ; lúc Hoàng thượng ở bên Pháp, ở triều tuy có đặt thêm ông Thân thần nhiếp chánh, kỳ thực ông ấy chẳng có quyền gì hết mà quyền về Toà Khâm. Rất đỗi người đàn ông có danh phận đường đường đó mà còn chẳng thay quyền nội trị được thay, có đâu đến người đàn bà bệnh hoạn, nằm chờ số mạng ở chốn thâm cung?
Đến như “đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đề từ mộ”, − sự ấy, muốn kiếm lấy một vài điều để chứng thực, e cũng kiếm không ra.  

Cái sự nhà vua làm cho dân cảm ơn và ái mộ, chỉ duy có khi nào đủ quyền làm những việc như đại xá, giảm thuế, tha xâu là việc các vua ta hay làm từ triều Tự Đức trở về trước. Chứ còn hiện nay, chính Hoàng thượng cũng không có quyền làm những việc ấy; đến một bà mẫu hậu lại càng không có quyền làm, thì chẳng biết lấy gì mà đức thấm ơn nhuần? Chúng tôi vẫn biết mỗi khi tấn tôn huy hiệu đức Thánh Cung, đều có ban ân chiếu; những cái ân chiếu ấy muốn kể là đức là ơn cũng được. Nhưng khắp mười hai tỉnh chỉ có một số rất ít người, hoặc cha mẹ già của các ấn quan, hoặc người già, mụ goá được phong được thưởng, thì làm sao lại nói “thiên hạ thảy đều từ mộ” được, cho dù chữ “thiên hạ” ấy là khép nhỏ lại nội một nước Nam?

Người nào đã có cái kiến giải thành thực như chúng tôi vừa nói trên đó mà đọc đến những câu: “Hạc đã về nơi hoa biểu, để dân đen con đỏ luống trông… Nhớ nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú?” thì cũng phải thẹn thầm, vì thấy mình cũng là dân đen con đỏ đây, cũng là người nước Nam đây mà chẳng hề có cái cảm tưởng thiết tha như tác giả nói, trong khi nghe tin đức Khôn Nguyên Thái hoàng Thái hậu thăng hà!
Thật, chúng tôi là người làm báo ở dưới chân liễn cốc mà cũng duy đến sau lúc được tin buồn ấy mới nghe người ta kể đến cái nhân cách của đức Thánh Cung ra sao. Người ta nói ngài có biết chữ Hán ít nhiều, thông hiểu việc bản triều lắm, và mỗi khi có ban phán điều gì, lời lẽ rất là đứng đắn. Cái nhân cách ấy vẫn đủ sanh lòng khâm kính của chúng tôi cũng như chúng tôi khâm kính một người khác có cái nhân cách ấy… 

Theo như lời những người đi coi đám từ trong Nội ra nói những lúc tế điện, lễ thần, xướng cử ai, Hoàng thượng đều không hề khóc. Có kẻ bảo như thế là nguội lạnh quá và trái lễ. Nhưng chúng tôi cho Hoàng thượng làm vậy là theo tánh tự nhiên của loài người. Chúng tôi chắc Hoàng thượng có lòng thương bà nội cũng như mọi người. Có điều đã già mà chết là sự thường, cái chết không có tức tối gì mà làm cho phải khóc thì không khóc được. Con nhà nho gặp đại tang, mỗi lúc xướng cử ai thì phải chiếu lệ ô hô hay hu hu ba tiếng, ấy là sự giả dối, chứ lễ gì? Nhắc câu chuyện này vào cho biết chỗ chí thân mà còn không khóc được thay, huống chi thần dân là người ngoài mà cho có được sự từ mộ ai bi như tác giả nói: “Muôn dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn câm vỗ”?

Cả bài văn đều là không thành thực. Nó không đứng được. Làm văn như thế thà đừng làm còn hơn.
Nhân đây tôi sẽ viết thêm nhiều bài nữa để cổ động cái chủ nghĩa thành thực trong văn học.
P.K

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 



---------------------
Nguồn :
Tràng an,  Huế, s. 88 (31/12/1935); s. 89 (7/1/1936)
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.