PHẠM PHÚ PHONG
Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.
Ảnh: internet
Mấy năm trước, tiểu thuyết Mảnh vỡ của mảnh vỡ viết về “nỗi buồn hậu chiến” của anh đã đoạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi tiểu thuyết 2011 - 2015 của Hội Nhà văn Việt Nam. Lần này, anh vẫn tiếp tục cảm hứng ấy, cố gom nhặt thêm những “mảnh vỡ” của từng số phận khi soi vào trong vô tận của đất trời, của không / thời gian, trở về với quá khứ để tìm câu trả lời cho hiện tại và chút nắng ấm ở tương lai.
![]() |
Không phải là tiểu thuyết lịch sử, nhưng cảm hứng về lịch sử, về ý thức tự cường, về biên giới biển đảo... chi phối tâm thức sáng tạo của tác giả. Cảm quan hiện thực dẫn dắt cái nhìn của người viết từ một ngôi nhà, một khu vườn, một gia đình, một gia tộc soi chiếu quang rộng ra lịch sử của cả đất nước xuyên suốt gần trọn cả thế kỷ (1916 - 2014). Trong một lần trao đổi với tác giả Vĩnh Quyền, nhà biên tập người Mỹ Zac Herman cho rằng: “Trong vô tận là chuỗi cảm hứng lịch sử ngược xuôi giữa 2014 và 1916, trải năm thế hệ một gia tộc lớn ở thành phố chứng nhân mọi biến động của lịch sử đất nước - Huế. Là tiểu thuyết đúng nghĩa, chỉ trên hai trăm trang, Trong vô tận bao chứa nhiều mảnh đời phức hợp và tập trung vào chủ đề lớn của thời đại: kết nối quá khứ để hoàn thiện bản thân. Nhân vật hầu hết ở tuổi hai lăm, vì vậy Trong vô tận cũng là chuỗi chuyện tình đa đoan theo dòng lịch sử” [trang bìa 4]. Có thể nói, đây là lối dựng truyện không có truyện, không kể được. Có thể nói gọn trong một câu: một đứa con ngoài giá thú, nghe tin cha đau nặng sắp mất, tìm về thăm. Hết! Nhưng nếu chỉ có vậy thì làm gì có tiểu thuyết, thậm chí không đủ dung lượng để viết một cái tin vắn trên báo. Từ cái cốt truyện giản đơn đó, người viết lồng thêm bao nhiêu chuyện về những mối tình của người cha xuất thân từ hoàng tộc, trong bối cảnh lịch sử của một dòng họ mấy đời gắn bó với đất nước, lồng trong câu chuyện có thật trong lịch sử về cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân, trong đó có cả một “trời nhan sắc” tạo nên một vòng sinh quyển kiêm ái đa đoan của nhà yêu nước họ Thái. Vì vậy, trong ngổn ngang của những sự kiện, nhằm nêu bật cái “chủ đề lớn của thời đại” mà nhà dịch thuật kiêm phê bình văn học Zac Herman đã nói, còn có một chủ đề nằm ẩn sâu đằng sau câu chữ, như một dòng chảy ngầm xuyên thấm qua đất đai cây trái ruộng vườn, đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước, là ý thức tự tôn dân tộc và bảo vệ chủ quyền về biển đảo, đề cao nguyên khí quốc gia: “Với một đất nước như Việt Nam, nếu được cho là cường quốc vào một thời kỳ nào đó, thì xuất phát điểm không hoàn toàn thuộc về thành tựu khoa học, kinh tế, quân sự mà chính là sự hưng thịnh của nguyên khí quốc gia. Nói cách khác, tùy thuộc vào việc đào tạo hiền tài và sử dụng hiền tài. Nguyên khí quốc gia còn là sức mạnh mở đường cho đất nước thoát khỏi cảnh lạc hậu và phiên thuộc nước lớn. Như trong bối cảnh đen tối cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sĩ phu Việt Nam đã dấy lên một phong trào thức tỉnh vô tiền khoáng hậu khi thực hiện chương trình đào tạo cách tân với mạng lưới trường học “phi chính phủ”, thầy ăn cơm nhà đến lớp, trò đi học để làm người nước Nam mới, tân - nam - tử, chứ không để làm quan, và với nguồn tài trợ đến từ nhân dân, trong đó chủ lực là doanh nhân trí thức yêu nước” [tr. 222 - 223]. Ở chiều ngược lại, người viết lên án thực trạng về một bộ phận không nhỏ những người đang làm việc trong bộ máy nhà nước, nhưng thờ ơ với truyền thống lịch sử dân tộc: “Nhiều người Việt đang quên dần mình là ai, từ đâu đến, nếu làm một khảo sát không báo trước, tại một cơ quan nhà nước cấp trung ương cho chuẩn luôn, từ lãnh đạo đến văn phòng, mỗi người chỉ cần điền đầy đủ và theo thứ tự tên các triều đại trong lịch sử nước nhà vào một mẫu liệt kê, kẻ nào không khai được “lý lịch dân tộc” thì đuổi, tao bảo nhé, sẽ không còn một mống” [tr.16]. Thậm chí, có khi lòng tự hào dân tộc còn được người viết đẩy đến mức cao trào, trong đó có những điều mà trí tưởng tưởng của nhà tiểu thuyết khẳng định, cần phải có các nhà kinh tế, lịch sử kiểm chứng, khi chạm vào chân lý: “Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới: Việt Nam năm 1820 - năm vua Gia Long băng hà sau mười tám năm tái thiết đất nước và khắc phục hậu quả hai mươi bảy năm nội chiến cũng như ngoại xâm - là một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người tiếp cận ngưỡng trung bình thế giới, trở thành một trong năm nền kinh tế lớn khu vực Đông Á, điều mà đến nay, gần hai thế kỷ sau, người Việt chưa lặp lại” [tr.229]. Cứ thế, những trầm tư về dân tộc cứ đan cài, xuyên thấm mọi ngóc ngách không/ thời gian, chi phối cái nhìn và tâm thức sáng tạo. Cái nhìn chuyển dịch một cách năng động, làm thay đổi không gian địa lý, định hình một kiểu không gian nghệ thuật chuyển dịch theo hành động và tâm tưởng của nhân vật, có thể từ cửa sổ máy bay nhìn thấy cái vô tận của đất trời, nhưng cũng có thể định vị từ một khu vườn nhỏ, một phủ đệ ở Vỹ Dạ, đã trở nên hoang vắng cả trăm năm qua, nhìn sâu vào cái vô tận của lòng người, để rồi dẫn dắt thời gian “ngược xuôi” xoay chiều, đảo ngược giữa dòng chảy của lịch sử, gắn bó với những mảnh vỡ của đời người phận mỏng. Thời gian vật chất vẫn trôi theo dòng lịch sử nhanh đến chóng mặt, nhưng thời gian nghệ thuật dường như vẫn đứng yên trong tâm tưởng mỗi nhân vật, dừng lại một cá tính, một bản ngã, lặng lẽ nhìn thân xác ngày mỗi già nua, tàn úa. Rất dễ nhận ra hình tượng thời gian đứng yên, đưa ánh mắt săm soi nhìn bóng dáng từng con người đang trôi theo dòng đời bằng những bước chân buồn bã và đầy những bất trắc, âu lo.
Đặc điểm nổi bật trong thế giới nhân vật tiểu thuyết của Vĩnh Quyền là không có nhân vật xấu. Họ chỉ có cá tính khác nhau, dẫn đến lối sống khác nhau, chấp nhận và tôn trọng nhau, nhưng vẫn không loại trừ hoàn toàn xung đột tiểu thuyết. Đó là những mâu thuẫn, xung đột giữa hoàn cảnh và tính cách, hoặc xung đột ngay trong thế giới nội tâm của riêng mỗi người, khi đưa ra những phép ứng xử trong từng hoàn cảnh cụ thể. Mỗi nhân vật một cá tính, một lối sống và đều có bản lĩnh, biết chịu trách nhiệm về hành vi ứng xử của mình trong đời sống. Hoàng từng là sinh viên học viện ngoại giao, trở thành đại ca trong giới giang hồ, đã tự vẫn vì biết mình không thể vượt qua căn bệnh đồng tính. Tùng làm báo, có lối sống phóng khoáng tự do, chuyên viết về các “chân dài” trong làng giải trí, nhưng cuối cùng cũng có mặt trong vùng biển nóng của đất nước “cùng các nhà báo trong nước và quốc tế nói trước camera như gào, cố át âm thanh ầm ào của sóng gió, của vòi rồng và tiếng gầm rú bạo liệt của động cơ hàng chục tàu biển quần nhau với tốc độ cực đại” [tr. 235]. Rồi các nhân vật cùng thế hệ như Luân, Biên, Linh, dì Nhàn, hoặc các nhân vật thuộc các thế hệ trước như người ông, người cha, người cha nuôi, người mẹ Diệu Lành, vú Hạnh, hoặc các nhân vật có thật trong lịch sử được tác giả điểm xuyết từ thuở các vua Hùng dựng nước đến cuối triều Nguyễn và dừng lại đặc tả cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân phò vua Duy Tân khởi nghiệp bị thất bại... Ngay cả cô gái “tóc vàng” người Mỹ tình cờ gặp trên máy bay tên là Fiona, tìm đến Việt Nam để chụp lại những bức ảnh nơi cha cô trước đây là lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã từng gây tội ác có lưu lại hình ảnh, cũng góp phần tô đậm cái chủ đề soi tìm ký ức, bởi “ký ức giúp con người hoàn thiện nhưng có thứ ký ức quá ngưỡng chịu đựng của một số người, trở thành nơi giam hãm. Với bộ ảnh ghi nhận cuộc hồi sinh nơi chiến trường xưa, tôi hy vọng sẽ đưa được cha tôi ra khỏi vùng ký ức thương tổn” [tr. 232 - 233].
Nghệ thuật tiểu thuyết là nghệ thuật kể chuyện. Người dẫn truyện trung tâm vẫn là nhân vật tôi - người con đang làm tiến sĩ sử học ở Mỹ về thăm người cha ốm sắp chết. Nhưng người dẫn chuyện còn là nhân vật tôi - người cha, người ông hay vú Hạnh, hoặc có khi tác giả trao cây bút cho chính nhân vật tự kể về cuộc đời mình. Là người có nội công thâm hậu, có trường lực trong nghệ thuật tự sự, người viết không cần rào đón, dẫn dắt xa xôi bằng những mỹ từ đậm chất “làm văn”, không cần mài dũa ngôn từ, cứ tự nhiên tung ra “chiêu thức” vẫn thu hút được người đọc. Đoạn văn sau đây, lướt nhanh về ngôi nhà với năm thế hệ sống qua một thời bi tráng của đất nước, từ tâm thế hiện tại chuyển qua một kịch bản lịch sử cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân là một ví dụ về sự năng động và tài hoa của ngòi bút Vĩnh Quyền trong nghệ thuật tự sự: “Việc dịch ký sự của André Bernard dẫn tôi vào góc khuất quá khứ gia đình, gặp chân dung khác của người ông vốn lặng lẽ khó gần và thấp thoáng hình bóng người cố mãi lang thang vô định bên trời xa/ Thiên ký sự cũng cũng thúc đẩy tôi tìm đọc thêm, thu thập tư liệu về thế hệ thanh niên cùng thời với ông tôi, thời bi tráng đất nước mình, cho tôi cái nhìn tích cực hơn thế giới chung quanh, chẳng hạn ngôi nhà tôi đang sống không hẳn là không gian cũ kỹ u buồn, mà nơi đây tam đẳng thị vệ Tôn Thất Đề và suất đội Nguyễn Quang Siêu từng đón hai nhà yêu nước Thái Phiên, Trần Cao Vân tạm ẩn chờ gặp đức vua ban lệnh khởi nghĩa Duy Tân/ Cảm hứng lịch sử còn khuyến khích tôi phác thảo một kịch bản văn học điện ảnh” [tr.158]. Và, 61 trang tiếp theo viết về cuộc khởi nghĩa của hai nhà yêu nước như một kịch bản điện ảnh có thể dựng thành phim truyện đặc sắc...
Đọc Vĩnh Quyền không chỉ là tiếp cận một thế giới hình tượng sống động đa chiều kích, bằng một nghệ thuật ngôn từ có sức cuốn hút, mà còn có sự nặng đầy về tri thức văn hóa lịch sử của dân tộc. Điều quan trọng hơn, khi bắt nhịp cùng hơi thở nồng nàn của văn chương anh, những tri thức ấy như được người viết thổi hồn mình vào trong đó, tạo nên những sinh thể, trở nên sống động, quẫy đạp, đòi hỏi phải có sự đồng cảm, sẻ chia. Văn chương không chỉ là tư tưởng mà còn là văn hóa. Nhà văn không chỉ là nhà tư tưởng, mà trước hết, họ là những nhà văn hóa.
P.P.P
(TCSH370/12-2019)
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)