Năm năm rồi không gặp… Phương Xích Lô

08:40 16/07/2008
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.

Chân dung nhà thơ Phương xích lô

Một cảm giác rất lạ trong tôi. Thật tình, tôi cảm thấy bình thản khi nhận tin, như thể đó là một điều bình thường. Trước giờ tôi chưa dám thú nhận điều này với ai, kể cả trước vong linh Phương, nhưng tôi biết trong bạn bè không ít người cũng có cùng cảm nhận ấy như tôi. Phương đang chết mỗi ngày, và đây là một ngày. Chúng tôi, trong đó có cả Phương, dường như đã chuẩn bị cho “ngày này” từ lâu. Có lần ngồi uống rượu với nhau, Phương vò đến nát nhàu một cái túi ni lông to, rồi bảo: “Em làm bác sĩ, khám coi cái lá gan của anh nó ra thế ni chưa Tường?”, nhưng rồi lại xòe tay ra nói: “Mấy thầy tử vi nói mạng anh thọ lắm, chưa chết được mô!” Bạn bè kể rằng, Phương ra thị xã Quảng Trị thăm nhà thơ Nhất Lâm đang chăm mẹ già ở đấy, nơi ngôi làng An Tiêm xinh đẹp, nhân buổi trưa trời nắng nóng liền nhảy xuống dòng kênh Vĩnh Định xanh trong tắm một trận đã đời, rồi đi luôn. Thật buồn tôi không thể có mặt trong đám tang anh Phương, nhưng thật ấm lòng vì bạn bè văn nghệ ở Huế và Quảng Trị đã mỗi người một tay lo chu toàn cho anh Phương, từ đám-tang-thơ cho đến miếng đất mặt tiền trên núi Tam Thai. Anh Võ Thìn, một trang hảo hán đất Thành cổ Quảng Trị đã dành luôn cho người bạn thân cật ruột bộ áo quần nâu sồng mà anh vừa mới may chưa kịp mặc, để cho Phương tử tế về với đất. Tôi chỉ kịp tạ lỗi với Phương bằng tập thơ Chở gió và một đêm thơ tưởng nhớ nhân ngày giỗ đầu của anh. Vậy mà đã năm năm rồi! Tưởng Phương chỉ đang giang hồ đâu đó. Đang làm trò đâu đó. Mỗi lần về ngôi nhà nhỏ, ẩm thấp trong con hẻm chật chội ở đầu phường Phú Hiệp (Tôi tên là Nguyễn Văn Phương, 8B kiệt 1 trên đường Chi Lăng…) thắp cho Phương nén nhang, tôi thì thầm trước di ảnh Phương đang vui đời cười rộng miệng: “Phương ơi, lâu ngày không gặp!” Trò này, Phương làm hơi lâu.
Với riêng tôi, Phương là người anh thân tình, người mà tôi chịu ơn. Phương là người đã nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp, đường làng văn nghệ. Những kỷ niệm trong veo của những ngày đầu tôi đến với thơ, chính là ở bên cạnh Phương. Một buổi sáng nọ, Phương dẫn tôi ghé thăm một người bạn âu sầu, họa sĩ Tôn Thất Ấn, đang trông coi những giấc mơ của mình trong một ngôi nhà cỏ tĩnh lặng trong Thành Nội. Hai câu thơ của Ấn viết theo lối thư pháp treo trên vách gây ấn tượng mạnh mẽ trong tôi:
Một sớm mùa xuân vang tiếng khánh
Khách dừng chân ngỡ tháng ngày xanh
Tôi còn nhớ niềm xúc động sâu xa từ những câu thơ đẹp mê hồn như một làn gió lan tỏa khắp da thịt tôi, sau này tôi đã ghi lại khoảnh khắc thần diệu ấy bằng câu thơ “ớn rung nguồn khởi động”. Tôi nhìn Phương, nhìn Ấn, váng vất quanh những bức tranh sơn dầu với những đốm máu vỡ trên nền vải căng mộng da trời, nhìn ra khu vườn nhỏ, mái hiên cũ kỹ,… cảnh vật và người ẩm ướt, bàng bạc xa xăm như ở vào một cảnh giới khác. Đó chỉ có thể là cảnh giới của Thơ! Và nguyên cớ nào đã cho tôi dự phần? Đó là vào những năm 90 của thế kỷ trước, khi tôi chỉ mới có vài bài thơ cỏn con đăng báo, và Phương thì đã nổi đình nổi đám với bút danh Phương Xích Lô trong những Đêm thơ tự chọn lẫy lừng của Tạp chí Sông Hương. Tôi đeo Phương suốt ngày đêm, từ những buổi cà phê Cây Si, Thành Nội cho đến những đêm trà ga Huế. Tôi tập nhiễm ở Phương cái máu thi sĩ. Phương đọc thơ không biết mệt, nhất là khi có rượu vào. Cái kiểu Phương say thơ khiến cho người nghe ngây ngất, sướng đã đời, đau đã đời, để rồi lại ngẩn ngơ vì sao thế! Vì sao, Thơ? Không có người đối ẩm thì Phương đọc một mình, hát ngâm một mình, dưới tán cây bên đường, dưới gầm cầu tối, dưới mái cổ tự, trong lòng phố chợ đông người. Rất lâu sau này tôi mới hiểu, chính là Phương đang cố lấp đầy đời mình bằng thơ. Nếu thơ vơi một phút giây nào, Phương sẽ chết rỗng mất!
Đời Phương nhàu nát và xộc xệch. Từ khi ly dị vợ - người mà suốt một thời gian dài dĩ nhiên là nàng thơ của anh, Phương trở thành tha nhân của chính mình. Gia đình tan đàn xẻ nghé. Hai cô con gái sinh đôi xinh đẹp và thông minh vào chùa tu (đôi khi Phương kể về điều này với một niềm hạnh phước lớn lao). Phương cũng bỏ đạp xích lô. Bắt đầu từ đây, Phương sống trong những lời đàm tiếu thị phi. Nhiều người trách Phương chỉ mới có vài bài thơ trên báo đã tưởng mình là nhà thơ lớn rồi, không màng đến đời xích lô áo cơm vụn vặt nữa! Thật oan cho Phương. Mấy ai biết được là Phương đã nhường chiếc xích lô ấy cho người em trai út đi bộ đội về, túng quẫn không nghề nghiệp, lại còn vợ con! Mặc ai nghĩ gì, nói gì, Phương chỉ lấy niềm vui đùm đuề của gia đình vợ chồng người em trai làm chút vui trong cô độc đời mình. Điều này tưởng bé mọn, nhưng thật sự cái tình người trong Phương rất lớn. Tôi không tưởng tượng được là các nhà văn, nhà thơ lớn của chúng ta yêu thương đồng loại đến đâu và họ thể hiện tình yêu đó trên ngàn vạn trang viết hay ho đẹp đẽ đến mức nào, tôi chỉ thấy điều đó giản dị nơi Phương. Hãy đọc những bài thơ dù hay dù dở của Phương về những người bán vé số, trứng vịt lộn, em bé miền cao gùi thông ra chợ bán, những người phu quét đường trong đêm lạnh, những người cùng cảnh ngộ xích lô… sẽ thấy chúng thật như thế nào! Đối với Phương, chỉ có tình người là thật, còn lại chỉ là trò đùa thôi! Và vì thế, ngoài lòng trắc ẩn riêng mang, Phương có thể đùa rỡn tất cả, mọi chốn mọi nơi. Tôi không có ý so sánh, nhưng ở điểm này, Phương giống Cố lão Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng! Phương đùa rỡn với quan nhân “Mấy lời nhắn gửi anh Phi/ Lăng xăng chính trị còn chi chính mình!”, đùa rỡn với muôn người đẹp (điều này chị em tiểu thương chợ Đông Ba không ai không biết), và rất thường xuyên… Phương đùa rỡn với chính đời mình (nằm thẳng cẳng giữa đường chờ xe cán chết). Có một dạo, dọc đường Chi Lăng nhiều người thấy Phương quay lưng và thủng thẳng… đi ngược về nhà! Hỏi thì Phương nói tỉnh bơ: “Đời ai cũng đi tới nhiều rồi, mệt mỏi lắm, chừ chỉ thích đi lui!” Hàng xóm láng giềng của tôi nhiều đêm hôm khuya khoắt bỗng bị đánh thức vì tiếng hô khẩu hiệu rất to và rất… “phản động” của Phương: “Phạm Nguyên Tường muôn năm!” mỗi lúc say khướt về ngang cổng nhà tôi. Tôi lựa lời nặng nhẹ với Phương, thậm chí… dọa nghỉ chơi (!), nhưng đâu vẫn hoàn đấy, bó tay chấm com! (Giờ đây Phương sống khôn thác thiêng, phù hộ độ trì cho bà con hàng xóm của tôi đêm nào cũng được yên ấm giấc nồng, đêm nào cũng thế cả, Phương nhé!)
Giống như nhiều người gặp hoạn nạn trong đời sống, Phương ngày càng lún sâu vào rượu chè. Phương uống suốt ngày, bất kỳ ở đâu, với ai. Không có nhuận bút thơ thì Phương ngửa tay xin tiền của bạn bè, người quen… chỉ để uống rượu! Đến một lúc rồi không ai có thể can ngăn Phương được nữa. Thậm chí, Phương với Rượu đã là một, Phương và Rượu, không biết ai dìm ai trong vòng hệ lụy, như những câu thơ xuất thần ngơ ngác lung linh trong rượu của Phương!
Khi say tôi cứ ngỡ
Hạt rượu là hạt mưa
Hạt mưa là hạt rượu
Mưa rượu là rượu mưa…
Cùng với rượu, chân nam đá chân chiêu Phương đi vào buổi “Chạng vạng” của đời mình, như chính tên bài thơ cuối cùng của anh mà bạn bè tìm thấy trong xắc cốt bỏ lại bên bờ kênh.
…Mắt nhìn
Chạng vạng hơi men
Miệng đời chạng vạng
Chê khen tiếng lời
Tuổi tên chạng vạng
Quên rồi
Đường đi chạng vạng
Biết nơi mô về…
Không hiểu sao tôi luôn nhớ về Phương rõ nhất chỉ vào hai thời khắc ấy, từ buổi sớm mai tinh khôi trong ngôi nhà cỏ sầu mộng của họa sĩ Ấn cho đến buổi chạng vạng của đất trời, của người… trong một tửu quán chật hẹp, ngập ngụa tha nhân, và Phương xiêu vẹo bước ra, bấy giờ cô độc. Cô độc hoàn toàn. Rất, rất cô độc. Ôi, đã bao lâu từ cảnh giới đầu tiên cho đến cảnh giới cuối cùng, trong trò đi lui xúi quẩy của Phương, đẹp và buồn đến nao lòng. Đó chỉ có thể là những cảnh giới của Thơ hay sao? Đó chỉ có thể là những cảnh giới đích thực của lũ chúng tôi hay sao?
…Vừa rồi, nhà thơ đầu bạc Nhất Lâm, người bạn vong niên trong chặng đời cuối của Phương, đã tự bỏ tiền túi ra in một tập sách “Nguyễn Văn Phương - Thơ và Đời” nhân năm năm ngày mất của Phương. Mới xem qua đầu đề cuốn sách, có vẻ như sách danh nhân, có người dèm pha: “Phương không phải cái gì ghê gớm lắm để được tôn vinh như vậy!” Lại có người xấu miệng bảo: “Nhất Lâm ăn theo Phương!” Thật là! Những lời thị phi đến giờ vẫn không buông tha! Lần này với cả Nhất Lâm, một người đáng kính! Bởi lẽ nhiều người không hiểu, Nhất Lâm và Phương Xích Lô, hai người hai tính nết khác nhau, hai chỗ đứng khác nhau sao lại có thể gần gũi thân thiết được đến vậy. Nhất Lâm là người “ra đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”, là người phản kháng mạnh mẽ với cái xấu, cái ác; và luôn biết cách thể hiện điều đó trên các diễn đàn. Ở Nhất Lâm, là sự phản kháng của lý trí. Còn ở Phương Xích Lô, là sự bạo loạn tâm can bộc phát. Khởi đầu từ sự khốn nạn và quẫn bách của đời sống. Họ đến để làm một, để làm nên một loài, gọi là Thi Sĩ.
Huế, 21/6/2006
Singapore, 5/4/2008
P.N.T

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)

  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!