Cần đặt hành trình trên vào tổng thể, hoặc toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại, hoặc văn học thế kỷ XX để thấy tính kế thừa và tính chuyển đổi của nó. Và như vậy cần chú ý các mốc lịch sử lớn tác động và làm thay đổi diện mạo văn học qua nhiều chặng đường, trên tất cả các phương diện của sáng tạo, trong đó nếu có một phương diện quan trọng và cốt lõi nhất thì đó là cảm hứng; bởi nhìn vào sự thay đổi của cảm hứng có thể nhận diện và đánh giá những chuyển động lớn của lịch sử trong hơn một thế kỷ văn học hiện đại, tính từ thập niên mở đầu thế kỷ XX cho đến hôm nay. Từ góc nhìn cảm hứng để nhận diện gương mặt văn chương học thuật nói riêng và sự sống tinh thần của dân tộc nói chung ta sẽ thấy một chuyển đổi mang tầm thời đại đã diễn ra trong thập niên đầu thế kỷ XX, trước hai mục tiêu Văn minh và Dân chủ của các nhà Nho - canh tân, trong ba phong trào Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, qua những áng văn như Văn minh tân học sách, và những vần thơ thống thiết hướng về Dân và Nước:
Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân
Đây là một khởi động vĩ đại trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, khi chuyển từ Vua sang Dân, khi gắn Dân và Nước. Phải từ khởi điểm đó, từ ý thức về Dân chủ và Chủ quyền dân tộc đó, để hiểu chính cảm hứng về Dân và Nước rồi sẽ là nội dung xuyên suốt đời sống văn hóa - tinh thần Việt Nam thế kỷ XX. Nó nối kết liền mạch với kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa - kể từ Tháng Tám 1945; với khẩu hiệu “Lấy Dân làm gốc” năm 1986; và với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,… hôm nay.
Với mục tiêu Dân và Nước cả một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền đã không quản hy sinh, chấp nhận mọi khổ ải của lưu đày…
Khi xã hội thuộc địa hình thành và đời sống đô thị cùng các tầng lớp cư dân mới xuất hiện trong và sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp thì nhu cầu hiện đại hóa nhằm vào mục tiêu Văn minh trong đời sống văn chương học thuật nổi lên, như một yêu cầu của thời đại; và đó là cơ sở cho sự xuất hiện các trào lưu văn học, dựa theo mô hình phương Tây. Và cùng với chuyển động này mà xuất hiện một cảm hứng mới - đó là cảm hứng về cái Tôi, và cái Riêng, nó là nhu cầu giải phóng cá nhân trong một xã hội tuy bị đặt dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng lại có căn rễ phong kiến phương Đông hàng nghìn năm. Cái Tôi, cái Riêng lần đầu tiên xuất hiện như một hiện tượng không chỉ mới, mà còn lạ, qua thơ Xuân Diệu:
Ta một mình như núi đứng riêng tây
…
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Nhưng cái tôi ấy, dẫu là mới, vẫn chỉ là một sự lóe sáng nhất thời trong khoảng trên dưới 10 năm; bởi nó thiếu những cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại; nên sau sự lóe sáng nhất thời, nó nhanh chóng trở nên lụi tàn và đi vào bế tắc, như trong thơ Vũ Hoàng Chương:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Vũ Hoàng Chương đã nói rất thực gương mặt và thân phận của cả một lớp người, chứ không hề thi vị hóa, thế mà cả Xuân Diệu - người khai mở, và Vũ Hoàng Chương - người kết thúc đều bị phê phán suốt hơn nửa thế kỷ.
Cách mạng Tháng Tám 1945 đưa dân tộc vào kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Đó là cơ sở cho một cảm hứng mới xuất hiện - cảm hứng về cái Chung và cái Ta, được biểu trưng trong một khái niệm mới là Đoàn thể1, nó như một điểm tựa lớn, một lẽ sống mới khiến cho con người, trước hết là những con người nhỏ bé, và cũng là con người cá nhân bỗng thay đổi hẳn tầm vóc và thân phận:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời.
(Tố Hữu: Huế tháng Tám)
Và Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam có lẽ là người đầu tiên thức nhận sớm nhất sự chuyển đổi nhanh chóng và quyết liệt đó, trong một bút ký viết ngay sau ngày Cách mạng thành công: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi; và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi - những nạn nhân của thời đại “chữ Tôi”, hay gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể.”2
Đưa Đoàn thể lên một vị trí thiêng liêng, khẳng định cái Ta thay cho cái Tôi, cũng là khẳng định cái Chung thay cho cái Riêng - đó là định hướng, là nội dung bao trùm một thời dài trên dưới 40 năm, kể từ 1945 đến cuối thập niên 1980.
Ngót 40 năm cho một chuyển động từ cái Tôi sang cái Ta, từ cái Riêng sang cái Chung. Bốn mươi năm - đó là thời của chúng tôi. “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” (Hồng Nguyên). “Chúng ta đoàn áo vải” (Hoàng Trung Thông). “Vui sướng bao nhiêu tôi là đồng đội/ Của những người đi vô tận hôm nay” (Chính Hữu). Bốn mươi năm - “Những năm toàn đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau” (Chế Lan Viên). Hướng về cái Chung, cái Ta nên sự giống nhau trở thành tiêu chí làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn mới, nói rộng hơn, một mỹ học mới, để phản ánh và nhân lên những động lực tinh thần rất cần cho một cuộc chiến quá dài những 40 năm, mà kẻ thù đến từ bất cứ đâu, là phương Bắc hoặc phương Tây cũng đều mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Cái giống, chứ không phải là cái khác phải trở thành mục tiêu tìm kiếm và đích đến cho bất cứ ai là người viết. “Núi Bắc, sông Nam đều giống Bác/ Nhìn một người ta nhìn ra cả nước/ Trán trông xa và mắt dõi về sâu” (Chế Lan Viên). “Đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình” (Tế Hanh)…
Bốn mươi năm cho một chuyển động như thế trong cảm hứng. Để từ nửa sau thập niên 1980 về sau sẽ là một chuyển động mới, cũng lại được khởi động, được bắt đầu từ Hoài Thanh trong một tâm sự riêng, trước khi qua đời, năm 1982, với con trai trưởng Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn”3. Vậy là, vẫn Hoài Thanh - người sớm nhất phát ngôn cho một cảm hứng mới, sau hai lần khẳng định và phủ định cái Tôi, đã lại trở về với những giá trị tổng kết “một thời đại trong thi ca” mà Thi nhân Việt Nam mang lại - nó là giá trị thế kỷ như sự suy tôn của Hội thảo Kỷ niệm 10 năm ngày mất của Hoài Thanh và 50 năm ra đời của cuốn sách, vào tháng 3 năm 1992.
Vậy là từ 1982, Hoài Thanh, với cảm quan nhạy bén của mình, đã trở lại sự khẳng định giá trị một cuốn sách; và sau cuốn sách là một phong trào có tên là Thơ mới, sau nhiều lần bị chính tác giả quay lưng hoặc dứt bỏ. Và với nhận thức đó, ông đã là một trong số ít người tiền trạm cho một giai đoạn văn học chính thức mở ra từ tháng 12/1986 - năm diễn ra Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, với hai tôn chỉ: “Lấy Dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Một cảm hứng mới, sẽ dồn tụ vào thời điểm này - chứ không phải sớm hơn hoặc muộn hơn, trước sau thời điểm 1985 - 40 năm sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là cảm hứng về cái khác, để thay cho cái giống, nó là sự khởi động cho cái chung trở lại với cái riêng. Phải khác. Và đó là Thời xa vắng, xa vắng chứ không phải là hiện hữu - “một ngày bằng hai mươi năm”. Là Mùa lá rụng…, lá rụng chứ không phải nở hoa - “Đất nở hoa” (tên một tập thơ của Huy Cận - 1961). Là Tướng về hưu, về hưu chứ không phải xông pha trên chiến trận. Là Nỗi buồn chiến tranh, buồn, chứ không phải vui (Đường ra trận mùa này đẹp lắm… - thơ Phạm Tiến Duật). Là Bến không chồng, chứ không phải bến vui, bến đợi. Là Mảnh đất gồm cả người và ma, chứ không phải đất làng, đất quê hương, thân thương, hoặc đất “nuôi ta thành dũng sĩ”. Phải khác, và đã khác, đó là đóng góp của một đội ngũ tiền trạm có tuổi đời từ 3x đến 5x như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Quang Thân, Thái Bá Lợi, Chu Lai, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Trí Huân, Dương Hướng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập… làm nên khúc dạo đầu tưng bừng cho một thời kỳ mang tên là Đổi mới, trước khi chuyển sang Hội nhập.
Sau thế hệ này sẽ có sự tiếp tục trong đồng hành và chuyển giao cho một thế hệ mới - thế hệ cuối 5x và 6x, rồi 7x xuất hiện và khẳng định vai trò của mình trong suốt thập niên 1990, thập niên đi qua hai mốc lịch sử lớn - đó là năm 1995, Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN; và năm 2000, thế giới chính thức bước vào cuộc Toàn cầu hóa lần thứ 34 gắn với Kỷ nguyên thông tin và Cách mạng số. Đó là Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Rồi kết nối với Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Trang Hạ, Nguyễn Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Việt, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư… cho đến Vi Thùy Linh - sinh năm 1980. Đây là thế hệ, theo tôi, gần như đã thoát khỏi các ràng buộc hoặc áp lực của truyền thống, và xác lập được những dấu ấn riêng; thế hệ nếu xuất hiện từ đầu 1990, thì đến nay cũng đã có thâm niên viết trên 30 năm. Vậy là một chu kỳ, hoặc một thời kỳ mới lại tiếp nối mà những tên tuổi tôi nêu trên chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ những gì đã xuất hiện trong sinh hoạt văn chương, học thuật mà đội ngũ là gối liền nhau, không đứt đoạn. Và, nhìn vào lịch sử, qua các mùa màng như mùa tiền chiến 1930 - 1945, mùa kháng chiến 1945 - 1975, mùa tiền Đổi mới và Đổi mới 1980 - 1995 mà những cây bút sung mãn đóng vai trò chủ công đều ở lứa tuổi 20 hoặc trên dưới 30 - thì với giai đoạn mới mở ra từ sau 1995 cho đến nay, lực lượng chủ công phải là thuộc thế hệ giữa 8x hoặc 9x trở đi. Chính thế hệ này sẽ hoặc đã gánh vác vai trò lịch sử của họ - để thay cho các thế hệ tiền bối gồm từ 3x, dẫu không ít người thuộc thế hệ này như Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Bắc Sơn, Chu Lai, Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Nhuận Minh… vẫn còn dồi dào năng lượng, nhưng nhìn chung cả đội ngũ thì chỉ nên là người đồng hành hoặc cổ vũ.
Thế nhưng nếu đời sống văn học đang rất sôi động và tưng bừng với sự xuất hiện những tên tuổi mới, nhờ vào các phương tiện thông tin mà đến rất nhanh và phủ rất rộng thế giới đọc, gồm cả thực và ảo, thì hoạt động của Hội Nhà văn, với trên 1000 hội viên hôm nay - số rất lớn đều đã đứng tuổi, hoặc đã ngừng viết từ lâu, quả chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Và những gì đang diễn ra ở ngoài Hội - đó là những tìm tòi xem ra khá nhộn nhịp của những người viết ở thế hệ 9x mà số rất lớn, nếu không nói là tất cả đều không mang Thẻ hội viên. Những tìm tòi, theo quan sát của tôi, đó là sự ráo riết săn tìm cái riêng và cái khác, để mong đến với cái mới. Những cuộc tìm tạo ra sự “muôn hồng nghìn tía” của bức tranh chung, tạo ra nhiều cái lạ, trong đó khó tránh có những cái lạ chỉ là sự lập dị, sự khác người, để được nổi tiếng, hoặc để bị tai tiếng, chứ không phải là cái mới đích thực vốn là, hoặc phải là sự xác lập một phẩm chất, một giá trị cao hơn. Một giá trị, đó phải là đến từ cái mới chứ không phải cái lạ. Một giá trị, nếu đúng là giá trị thì phải là cái riêng và cái khác; nhưng không phải cái riêng hoặc cái khác nào cũng tạo nên giá trị… Đó là những gì đã được lịch sử chứng minh, chứ không phải một khẳng định vu vơ. Do vậy nếu có gì cần chia sẻ với các thế hệ trẻ, ở tuổi sung sức hôm nay, tôi chỉ muốn chia sẻ điều ấy. Và nếu có gì cần đóng góp với Hội Nhà văn hôm nay, sau 10 kỳ Đại hội mà 9 cuộc tôi chính thức được dự, tôi chỉ muốn nói một điều: Hãy đến với thế hệ trẻ. Hãy mở rộng các phương thức hoạt động, và tăng sức hấp dẫn, để đưa vào quỹ đạo sáng tạo mọi tiềm năng của thế hệ trẻ, qua đó khởi động và tỏa rộng những cảm hứng mới cho họ, và cũng là cho Hội; những cảm hứng gồm cả Tôi và Ta, cả Riêng và Chung, cả Khác và Giống, cả Lạ và Quen, để tạo nên những mùa màng mới, xứng với Tổ quốc, với Nhân dân, với Dân tộc, với Thời đại. Nhìn lại hơn một thế kỷ hiện đại hóa, các thế hệ ông, cha đã thế thì các thế hệ hôm nay cũng không thể khác, nếu không nói là phải vươn cao hơn, vượt trội hơn. Đó là niềm tin của tôi. Niềm tin về cái hậu cho mỗi đời người và chung cho mọi người. Một niềm tin vốn đã có sẵn trong tâm thức dân tộc: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”…
P.L
(TCSH434/04-2025)
-------------------
1 Đoàn thể - đó là Đảng (lúc này sau khi tuyên bố tự giải tán, đã rút vào bí mật, hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, cho đến 1953) và các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh, và sau đó là Mặt trận Liên Việt, do Đảng lãnh đạo.
2 Dân khí miền Trung; Tiên phong số 3/1945.
3 Di bút và di cảo; Nxb. Văn học; 1993; tr.200.
4 Theo Thomas L.Friedman trong Thế giới phẳng (tóm lược thế giới thế kỷ XXI); bản dịch của Nxb. Trẻ; 2006.
PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.
Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.
TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.
NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.
LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.
NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không. (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…
NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa
LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.
PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?
L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.
ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.
VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).
PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:
ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?
TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.
KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?
MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.
INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay
XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.