Vua Khải Định (1916 - 1925) phải tăng thuế thân 10%, thuế điền 30% mới có đủ kinh phí làm nên cái lăng đồ sộ này. Do kiến trúc theo lối mới, mà học giả người Pháp L.Bezacier gọi là phong cách "Néo-classique" (Tân cổ điển), nên lăng Khải Định thường bị người đời chê là lai căng, kệch cỡm và đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn.
Tuy nhiên, khi đến thăm di tích này, mọi người đều thán phục nghệ thuật trang trí nội thất ở cung Thiên Định - kiến trúc trọng yếu của Ứng Lăng. Một thế giới màu sắc rực rỡ với đầy đủ cỏ cây, hoa lá, thú vật, thơ văn... bày ra trước mặt, đã thực sự chinh phục du khách. Đằng sau sự lộng lẫy đó, khi đi sâu vào mặt trang trí, là một chuỗi vấn đề văn hóa, lịch sử vô cùng thú vị. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đưa ra một số nhận xét về việc trang trí trong Thiên Định Cung, ngõ hầu góp thêm một vài sử liệu để chúng ta có một cái nhìn khách quan hơn với di tích lăng Khải Định.
I. Sự hội tụ phong phú về đề tài trang trí:
Nội thất lăng Khải Định là nơi hội nhập của hầu hết các đề tài trang trí thời Nguyễn. Từ những môtíp truyền thống của trang trí cung đình như tứ linh, tứ binh, nhật nguyệt,... đến những đề tài dân gian đi lạc vào chốn cung đình như thập nhị giáp, những loài vật nuôi, cây trồng gần gũi với đời sống thường ngày của người dân; từ những đồ án trang trí trích rút từ các điển tích của đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, đến những vật dụng rất hiện đại so với bấy giờ như đồng hồ, đèn hoa kỳ, kính lúp... cũng góp mặt nơi đây. Tất cả được dung hòa một cách lôgich, chặt chẽ tạo nên một sự phong phú lạ kỳ.
Ở mảng đề tài truyền thống, đồ án rồng và mây chiếm ưu thế đặc biệt. Trần nhà của ba phòng chính giữa Thiên Định Cung là ba bức họa bột màu vẽ đề tài "Cửu long ẩn vân" do nghệ nhân Phan Văn Tánh thực hiện. Mỗi bức có diện tích hàng chục mét vuông, vẽ chín con rồng ẩn trong những cụm mây lớn. Trên tất cả các ô cửa hình vòm và những mảng tường sau của hậu điện đều có trang trí những hình rồng mặt nạ đắp nổi bằng sành sứ, miệng ngậm tua đính kim tiền. Quanh các mảng tường là hai mươi cột hình ống có đồ án rồng mây uốn quanh theo kiểu "long vân đồng trụ" như các di tích khác ở Huế. Các linh vật khác trong tứ linh như phượng, lân, rùa xuất hiện nhiều ở các khám thờ, án thờ, kỷ thờ, bửu tán...
Phổ biến nhất trong Thiên Định Cung là các đồ án hoa lá, tứ bình. Ở bốn góc điện Khải Thành là hệ thống 16 bức tranh trong bộ tứ bình với bốn loài cây mai - tượng trưng cho mùa xuân; liên (mùa hạ), cúc (mùa thu), liễu (mùa đông). Phần trên mỗi bức tranh đều có thơ vịnh bằng chữ Hán:
Hoa mai: Sổ điểm mai hoa thiên địa tâm
(Mấy cánh hoa mai giống như trái tim của trời đất) (1)
Hoa sen: Thái diệp phong đầu ngọc tĩnh liên
(Ngọn lá lớn trên đỉnh núi đó là cây sen giếng ngọc)
Hoa cúc: Thiên hạ vô song phẩm. Nhân gian đệ nhất hương.
(Phẩm chất vô song miền hạ giới. Hương thơm số một giữa trần gian).
Cây liễu: Liệt tú phân long ảnh. Phương trì tả phụng văn.
(Các vì sao được phân bố như hình ảnh con rồng. Ao thơm phô ra vẻ đẹp con phụng).
Ngoài ra, khắp các mảng tường đều có những bức tranh lớn với hình ảnh cây tùng (tượng trưng cho người quân tử), cây trúc (biểu hiện sự thanh cao), cây ngô đồng với con chim phượng hoàng tượng trưng cho Hoàng hậu. Hình ảnh con dơi tượng trưng cho Ngũ phúc và bộ bát bửu của đạo Nho với trân châu, đồng tiền, mao tiết phương trượng, hốt, ngòi bút, cuốn thư và cây phất trần, xuất hiện ở nhiều nơi.
Những đề tài dân gian xuất hiện trong nội thất lăng Khải Định ở những vị trí khiêm tốn nhưng rất đa dạng. Sau sự đột phá bởi những phù điêu đất nung trang trí ở cổ diềm lăng Đồng Khánh, việc tái hiện thế giới sinh vật trong lăng Khải Định được thực hiện ở một trình độ điêu luyện về tạo hình và phong phú, đa dạng về đề tài thể hiện. Ở các băng ngang chạy quanh phần tường trên của Khải thành điện xuất hiện những con vật trong thập nhị giáp, như: Chuột, hổ, dê, gà, chó, mèo...; những cảnh trống mái, cáo bắt gà, dê và cây so đũa... xếp xen kẽ với những bộ bát bửu được "mở rộng", dung nạp thêm những vật dụng trong cuộc sống hằng ngày. Những môtíp trang trí phổ biến ở các đình chùa như mai điểu, liên áp, tùng lộc, mẫu đơn trì..., cũng được sử dụng để trang trí trong nội thất Ứng Lăng.
Lần đầu tiên trong lịch sử trang trí thời Nguyễn những vật dụng hiện đại và lạ mắt xuất hiện rải rác trong các mảng tường của Thiên Định Cung bên cạnh các đồ án trích rút từ Kinh điển Nho gia. Đó là cây vợt tennis, chiếc đồng hồ để bàn, ngọn đèn dầu, ly uống champagne, hộp đựng thuốc lá, kính lúp. Khải Định là một ông vua hiếu kỳ, chuộng cái lạ nhiều khi đến kỳ quặc. Trong một bài viết đăng trên B.A.V.H, nhà Huế học L.Cadière đã cho biết nhà vua mang cả Bắc đẩu bội tinh lẫn thẻ ngà như những quan lại thời Nguyễn, thậm chí còn đính cả bóng đèn điện lên thắt lưng và tỏ ý thích thú. Chính vì thế việc cho trang trí trong lăng của mình những đồ vật nói trên là điều dễ hiểu.
Chữ Hán cũng được xem như một loại đề tài trang trí. Toàn bộ nội thất có 178 ô trang trí chữ Hán trong đó có 6 ô câu đối và 164 ô chữ Thọ, ngoài ra là các chữ Hỷ, chữ Vạn được thể hiện dưới nhiều hình thức: chữ Triện, chữ Lệ và chữ Chân. Toàn bộ mảng tường sau và hai bên hậu điện là hệ thống trang trí liên hoàn với hơn bốn trăm chữ Vạn (卐) nối tiếp nhau, xen kẽ với những cổ vật trong bộ bát bửu của đạo Lão(2).
Có thể nói rằng những đề tài trang trí trong nội thất Thiên Định Cung là sự hội tụ giữa truyền thống và hiện đại, là sự hòa nhập của ba ý thức hệ Nho, Lão và Phật để tạo nên nét đặc sắc và độc đáo trong nghệ thuật trang trí thời cuối Nguyễn.
II. Sự cách tân trong phong cách thể hiện.
Chất liệu tạo hình cơ bản trong trang trí ở lăng Khải Định là sành sứ và thủy tinh. Nhà vua đã cho người sang Pháp mua kính và thủy tinh màu, sành sứ tốt mua tại Trung Hoa và Nhật bản còn sành ngang thì chở từ Bắc Hà vào. Việc tạo hình bằng phương pháp ghép khảm sành sứ không phải là một phát kiến hay một biệt lệ dưới thời Khải Định. Bởi trước đó, trong quần thể di tích cung đình và tôn giáo thời Nguyễn ở Huế và nhiều nơi khác, người ta đã thấy sự xuất hiện khá phổ biến của phương pháp này. Khảm ghép sành sứ có tính hai mặt. Nó có thể bù lấp, che giấu các chi tiết kiến trúc bị cong vênh hay hao khuyết mà những người thợ đã vô tình mắc phải trong quá trình xây dựng. Đồng thời, nó sẽ tôn nổi họa tiết, làm sinh động và rực rỡ những họa tiết trọng tâm. Tuy nhiên nếu việc ghép khảm sành sứ đó không được dung hòa trong một tổng thể trang trí mà chỉ mang tính riêng biệt thì sẽ đưa đến tình trạng mất cân đối trong trang trí. Bản thân sành sứ, thủy tinh là những chất liệu cứng, nếu không đạt đến độ nhuần nhuyễn, tinh tế trong tạo hình thì họa tiết sẽ trở nên khô cứng, nặng nề. Cũng là ghép khảm sành sứ, nhưng ở giai đoạn trước, phương pháp này như là một sự minh họa hay nhấn mạnh một chi tiết trang trí được tạo hình trước đó bằng phương pháp đắp nổi hay vẽ bằng bột màu. Điều đó có nghĩa là trong một cái "khung" có sẵn bởi họa tiết, người ta ghép khảm sành sứ lên bên trên chứ bản thân việc ghép khảm này không thể tạo ra một họa tiết độc lập. Ở lăng Khải Định, điều này đã không xảy ra. Những mảnh sành sứ, thủy tinh được cắt, gọt, tỉa đến từng đơn vị nhỏ nhất để trở thành những đài hoa, cánh lá... mà khi tập hợp những đơn vị này vào một họa tiết thì họa tiết đó tự thân hình thành, không có sự giới hạn của nét vẽ hay đắp vữa. Các nghệ nhân thời Khải Định đã biết thổi vào những mảnh sành sứ khô cứng kia một sự sống động để họa tiết trở nên có hồn và tinh tế vô cùng.
Tất cả các mảng tường của ba phòng giữa trong Thiên Định Cung đều được phủ kín bằng sành sứ và thủy tinh màu thông qua các họa tiết trang trí. Đó là một thế giới lung linh mờ ảo mà rực rỡ được tổng hòa từ những mảng màu nhỏ và không thể phai mờ theo thời gian. Việc sử dụng thủy tinh màu và sành sứ để trang trí có tác dụng làm cho họa tiết giữ màu vĩnh viễn. Đồng thời nhờ vào hiện tượng khúc xạ ánh sáng mà khi những tia nắng mặt trời chiếu vào các họa tiết bằng thủy tinh, sẽ tạo ra hiện tượng phản quang, đưa ánh sáng đi vào những góc tối trong nội thất làm cho Thiên Định Cung luôn luôn mờ ảo và lộng lẫy màu sắc. Những hiện tượng này không thể có được nếu trang trí bằng các chất liệu khác.
Bột màu cũng được sử dụng nhiều trong việc trang trí và đã mang lại hiệu quả nghệ thuật rất cao. Việc sử dụng màu than đen tạo vân trên nền xi măng trắng để giả đá cẩm thạch ở Tả trực phòng và Hữu trực phòng đã khiến đa phần du khách đi tới đây cứ ngỡ rằng hai phòng này được tạo từ những khối đá cẩm thạch vĩ đại. Bột màu cũng là chất liệu để nghệ nhân Phan Văn Tánh vẽ ba bức họa "Cửu long ẩn vân" nổi tiếng, đã được các họa sĩ Việt Nam hiện đại công nhận là những bức họa hoành tráng có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội họa nước ta(3). Đáng chú ý là sự bền màu rất khâm phục của những bức tranh này bởi đã hơn 60 năm trôi qua, màu sắc của các bức tranh vẫn tươi nguyên như thuở ban đầu. Sau thành công của Lương Công Duyệt qua 6 bức tranh bột màu vẽ phong cảnh lăng các vua Nguyễn trong An Định Cung (nơi ở cũ của bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại) thì những bức họa của Phan Văn Tánh trong Thiên Định Cung đã đặt một cái mốc quan trọng trong lịch sử hội họa Việt Nam hiện đại.
Tuy nhiên, sự cách tân chỉ xảy ra trong phong cách thể hiện, còn trong bố cục và sự chọn lựa màu sắc, trang trí nội thất lăng Khải Định vẫn dựa trên tính truyền thống. Đó là việc khuôn định họa tiết trang trí trong các đơn vị ô hộc theo phong cách "nhất thi, nhất họa". Toàn bộ các mảng tường trong nội thất Thiên Định Cung có tới 396 ô hộc trang trí, trong đó, có 184 ô là văn tự Hán ngữ. Trên các án thờ, kỷ thờ, bửu tán... còn có tới 186 ô hộc trang trí hoa, lá, rồng, phụng,... và 24 ô chữ Hán. Như thế phong cách ô hộc vẫn xuyên suốt từ trang trí đầu thời Nguyễn đến trang trí thời Khải Định.
Về màu sắc, ngoài việc đưa thêm một vài màu mới vào trang trí như nâu đen và xanh thẫm, bảng màu chủ yếu vẫn là bảng màu của "pháp lam Huế”(4) với các màu vàng, đỏ, xanh lục... là chủ đạo. Điều đó có nghĩa là trang trí truyền thống vẫn ít nhiều tác động lên trang trí nội thất lăng Khải Định. Điều đó càng có nghĩa là không có lý do gì để đặt lăng Khải Định ra ngoài dòng kiến trúc và nghệ thuật thời Nguyễn.
III. Sự dung hòa của nhiều tôn giáo trong tư tưởng.
Xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn là xã hội phong kiến thời mạt kỳ. Nền tảng tư tưởng đặt trên cơ sở ý thức hệ nho giáo với những thiết chế "tam cương, ngũ thường". Vào đầu thời Nguyễn, vua Gia Long (1802-1820) đã xây dựng bộ "Hoàng triều luật lệ" dựa trên luật Mãn Thanh và bộ luật Hồng Đức thời Lê, đề cao đạo Nho, hạn chế đạo Lão, đạo Phật. Tuy nhiên trong thực tế, Nho giáo thời Nguyễn đã không còn giữ đúng nguyên trạng của Nho giáo nguyên thủy hay Nho giáo thời Tống. Dưới thời các chúa, Phật Giáo đã được các chúa Nguyễn sử dụng như một chất keo để đoàn kết nhân dân xây dựng đất nước xứ Đàng Trong, vì thế đạo Phật rất được trọng thị. Bản thân các vua Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị... đến Đồng Khánh, Thành Thái đều nhiều lần cho tu sửa và mở mang đền chùa. Khi xã hội rơi vào cảnh rối ren, nhiều quan lại, quý tộc Nguyễn như Dương Khuê, Nguyễn Công Trứ, Tùng Thiện Vương... đã lui về ở ẩn, sống cuộc sống của một đạo sĩ, ẩn dật, yếm thế. Vì vậy, những tư tưởng Phật, Lão đó đã xâm nhập vào chốn cung đình, tạo ra một hệ ý thức mà người đời quen gọi là "Tam giáo đồng hành". Tư tưởng này đã thể hiện rất rõ nét trong trang trí ở lăng Khải Định. Từ ngoài vào trong, trang trí lăng Khải Định như muốn đánh dấu ba giai đoạn phát triển ý thức trong đời sống của một con người, cho dù, con người đó là một ông vua. Ở Khải Thành Điện, những đồ án của đạo Nho chiếm vị trí chủ đạo, đó là giai đoạn đầu tiên của một ông vua - nho sĩ, muốn thăng tiến bằng ý thức hệ Nho gia. Tiến vào chính điện, thấp thoáng xuất hiện những môtíp trang trí của Lão Giáo để có thể ngầm hiểu đến lúc cuối đời, con người nho sĩ đó muốn có được một sự nhàn tản, "vô vi" của một vị đạo sĩ, muốn thoát khỏi những xô bồ, mỏi mệt của đời thường. Tuy nhiên, vầng mặt trời đang lặn xuống sau lưng pho tượng vua Khải Định như vẫn khẳng định rằng vua là thiên tử, là mặt trời. Vua mất thì mặt trời lặn xuống. Ý thức hệ Nho gia vẫn trỗi dậy để tồn tại. Thế nhưng ở hậu điện, nơi thờ bài vị nhà vua, hơn 400 chữ vạn (卐) một biểu tượng của nhà Phật đã tồn tại để thể hiện ước muốn cuối cùng của ông vua nho sĩ kia. Đó là được siêu thoát trong cõi Niết Bàn, ước muốn không chỉ riêng của vua Khải Định mà của đa phần nhân dân đương thời đang chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo. Tất cả những họa tiết trang trí trong Thiên Định Cung với một bố cục có ý đồ đã chuyên chở một sự dung hòa tất yếu của ba ý thức hệ Nho-Lão-Phật trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ. Đó chính là cái hay, cái đặc sắc trong trang trí nội thất ở lăng Khải Định.
* * *
Mạo muội đưa ra những nhận xét trên đây, chúng tôi muốn nói rằng lăng Khải Định đã đạt đến một trình độ nghệ thuật tuyệt vời trong cả kiến trúc lẫn trang trí. Và đó là điều đáng trân trọng, ngưỡng mộ. Đồng thời, để khẳng định rằng, cũng như văn hóa, nghệ thuật chính là bản sao trung thành của lịch sử, phản ánh từng bước thăng tiến của khúc quanh lịch sử, góp phần thúc đẩy lịch sử tiến lên.
T.Đ.A.S
(TCSH60/02-1994)
-------------------
(1) Phiên âm và dịch chữ Hán trong bài này là do ông Phan Thuận An - cán bộ nghiên cứu Trung tâm bảo tồn di tích Huế cung cấp.
(2) Bộ bát bửu của đạo Lão gồm: cây gậy của Lý Thiết Quả, Phất chủ của Hán Chung Ly, Con lừa giấy của Trương Quả Lão, lẳng hoa của Hàn Tương Tử, Sách ngọc của Tào Quốc Cựu, ống tiêu của Lữ Đồng Tân, tám ngọc bảng của Lam Thái Hoà, hoa sen của Hà Tiên Cô.
(3) Theo Phan Thuận An - Kiến trúc cố đô Huế - Trung tâm bảo tồn di tích Huế xuất bản - Huế 1992 trang 96.
(4) Xem thêm: Phạm Đăng Trí - Quanh các pháp lam Huế - nghĩ về màu sắc - Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật số 3 (44) 1982.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.