Mười năm xích lô hành chở gió

16:40 25/06/2012

LÊ HUỲNH LÂM

Mỗi người bước vào cõi thơ ắt hẳn sẽ để lại dấu ấn bằng mỗi phương cách khác nhau. Có người đi vào thơ ca qua những cuộc chiến, có người dùng chính đôi bàn chân mình, hay đôi tay mình, cũng có người bước vào thơ bằng chiếc xe đạp hay xe gắn máy,… nhưng tất cả đều đến với thi ca bằng trái tim.

Có thể nói Nguyễn Văn Phương là thi sĩ đầu tiên đã bước vào cõi thơ trên ba bánh xe Xích lô. Thơ như chắp cánh cho Xích lô của thi sĩ Phương bay cao hơn. Sau tập thơ “Có những dòng sông” in chung bốn tác giả năm 1992 do Nxb. Thuận Hóa cấp phép, rồi đến “Chở gió” xuất bản năm 2002 (Nxb. Hội Nhà văn) và “Xích lô hành” in năm 2007, tất cả những tập sách ra mắt với bạn đọc đều do tấm lòng của anh em và bạn bè thân thiết xa gần của anh Phương góp sức.

Nhớ những đêm khuya thả bước lang thang về, gặp nhau chỉ một đoạn đường ngắn từ cầu Trường Tiền đến cái hẻm nhỏ ở đường Chi Lăng, tôi rẽ vào xóm nhỏ, anh Phương tiếp tục đi về, ngôi nhà anh cách nhà tôi chưa đến một cây số, nhưng đã có rất nhiều bài thơ và những chuyện vui buồn được bày tỏ. Những tháng ngày đó, anh Phương thường gặp Nguyễn Nghĩa, Phan Đạo, Ngô Thiên Thu và Phạm Nguyên Tường cùng một số anh em khác. Mấy anh em ngồi ở quán rượu ven đường của anh Song, dưới cột đèn vàng vọt ở đầu phủ Thọ Xuân, thỉnh thoảng anh Vĩnh Điền, một giáo sư toán thất nghiệp, bước ra từ cảnh giới xa lạ, ngồi với anh em huyên thuyên về chuyện đời, chuyện đạo. Tập thơ “Có những dòng sông” dự định ban đầu gồm bốn tác giả là: Nguyễn Văn Phương, Xuân Dân, Nguyễn Tánh và Vĩnh Điền. Sau sự cố anh Vĩnh Điền rơi vào trạng thái bất thường “không chịu” đưa thơ, thì Ngô Thiên Thu được điền vào thay. Cái thời thiếu ăn, thiếu mặc mà anh em lại mê thơ đến như vậy, cùng nhau dành dụm, quyên góp từng đồng để tập thơ in chung ra mắt mọi người, và kỳ lạ nữa là tập “Có những dòng sông” là tập thơ không cần mục lục. Thơ là như vậy đó. Như lời tâm sự của thi sĩ  Phương:

Thơ không giúp được ngươi cơm áo
Thơ chẳng giúp gì ta cháo hồ
Làm một trăm bài đều mộng mị
Đăng vài tờ báo cũng hư vô
                    
(Xích lô hành)

Đọc những câu thơ trên không khỏi ngạc nhiên về cái nhìn nhân bản của tác giả, để rồi qua những vui buồn và ngộ nhận của người đời dù có khi còng lưng, toát mồ hôi nhưng cũng có những lúc:

Vắng khách đôi khi về chở gió
Không tiền, không bạc vẫn cười vang

Và những giây phút tác giả đã lắng lòng sau những cuộc áo cơm:

Dừng lại bên cầu nghe nước chảy
Chợt thấy mình: một giọt nước Hương Giang.
                    
(Giọt nước Hương Giang)

Thật khó để thấy mình là một giọt nước, ai cũng muốn mình là ông này, bà nọ… hầu hết  đều rơi vào vòng lợi danh. Vậy mà Phương lại chợt thấy mình một giọt nước nhỏ nhoi. Một giọt nước buồn vô danh trước cuộc dâu bể. Trong cuộc hành trình trên những chuyến xích lô Phương đã đồng cảm với những đời phu gian khó và đã có thơ Gửi bác xích lô Hà Nội:

Đêm trăng ấy bác xích lô Hà Nội
Chở tôi thăm ba mươi sáu phố phường
Bác đâu ngờ khách cùng nghề như bác
Cũng đời xích lô dãi nắng dầm sương

Tuy bác ở cách tôi ngàn dặm
Nhưng gần nhau trong những nỗi trầm thăng
Bốn mùa chuyển nhịp cùng mưa nắng
Đời quay tròn theo ba bánh xe lăn


Và trong một lần chở người khách Nam bộ đi trên những con đường thơ mộng của Cố đô Huế, thi sĩ đã hứng cảm tặng thơ cho vị khách, cũng hành nghề xích lô ở Sài Gòn:

Đi nửa đường biết chân tôi đã mỏi
Anh thay tôi đạp một đoạn dài
Trong giây phút không còn ai khách chủ
Anh và tôi hòa nhập một con người

                     (Thơ gửi người khách Nam Bộ)

Trong những cuộc cơm áo trên chiếc xích lô, chàng thi sĩ đã tìm ra lẽ sống cho mình và đã “Hát vang bài xích lô”:

Người lên non ẩn dật
Chuyên đốn củi đốt than
Ta ẩn trong lòng phố
Đạp xích lô lang thang

Đã lâu rồi quên hết
Những thị phi giang hồ
Từng đêm ngồi gõ nhịp
Hát vang bài xích lô
.

Trong cuộc sống lang thang vỉa hè không ổn định, ngày có ngày không, thi sĩ đã cảm thông cho những con người cùng cảnh ngộ:


Mẹ cha nghèo
Xui em nghỉ học
Từng đêm bán trứng phụ giúp nhà
Dấu chân em in khắp thành phố
Lời rao non nớt vọng gần xa.
                    
(Thơ tặng bé bán trứng vịt lộn)

Và mối thương cảm khi thấy một bé gái dân tộc lạc lõng giữa phố hội, tác giả đã cảm tác bài “Lối em về”:

Bé Thượng
Gùi thông ra chợ bán
Một nét rừng
Giữa chốn phồn hoa
Thông nhen lửa
Cho đời ai ấm?
Lối em về
Lạnh mấy đồi xa…


Thơ của Nguyễn Văn Phương làm rất nhiều thể loại, với âm điệu gần gũi với cuộc đời bình dị và trong số đó những bài lục bát của anh rất chân chất, mang nặng âm hưởng của những cuộc hẹn hò vô định và đượm màu đạo, đôi khi như một dự cảm cho số phận chính mình:

Tôi về lặng lẽ đêm khuya
Sông chia mấy nhánh, phố chia mấy đường
Chim kia giờ ngủ trong vườn
Tôi còn mấy bước đoạn trường sắp ngưng

                     (Lục bát đêm khuya)

Và rồi anh Phương đã bước vào cảnh giới “Chạng vạng” mãi mãi mà không biết khi mô trở về:

Miệng đời chạng vạng
Chê khen tiếng lời
Tuổi tên chạng vạng
Quên rồi
Đường đi chạng vạng
Biết nơi mô về


Dù Nguyễn Văn Phương đã rời chốn trần gian đầy ải và lắm thị phi này, nhưng hình ảnh của một Phương Xích lô vẫn mãi còn đọng trong lòng anh em và trong những vần thơ mà theo anh là “một trăm bài đều mộng mị”. Một trong những bài thơ thể hiện cái khí chất ngang tàng, cô độc của thi sĩ khi uống rượu say là “Độc túy hành”:

Ta say hề, đêm nay ta xỉn
Ngất ngưởng đi về giữa khói sương
Gõ nhịp ta ngâm bài tống biệt
Vỗ chai ta hát khúc hồ trường
Ba ngàn thế giới trong cốc rượu
Bao dung ta ôm trọn vui buồn.


Còn nhớ lúc sinh thời, anh em văn nghệ rất thích giọng ngâm khàn khàn men rượu của Phương với bài “Hành phương nam”, “Qua đò tháng Chạp”,… Bài thơ “Qua đò tháng chạp” là tâm trạng của anh Phương thời đó. Những người anh em thân tình với Phương Xích lô một thời đã kể lại: “Hồi đó chúng tôi thường hỏi Phương bài “Qua đò tháng Chạp” để đăng báo, Phương nói đó không phải thơ mình. Và còn dặn thêm sau này đừng đưa vào tập”. Kể cũng lạ, nếu Phương là tác giả thì anh đã in báo từ cái thời xa xưa, đâu phải đợi đến đoạn kết cuộc đời. Vậy mà trời xui đất khiến cộng với tình cảm của anh em với Phương quá sâu nặng nên đã lấy bài đó in báo, đưa vô tập sau khi Phương qua đời. Sau này, mới biết tác giả bài thơ đó là người Việt sống ở nước ngoài. Từ ngày Phương rời khỏi cõi đời, những người bạn của anh đã in cho anh tập Chở gió, tập Xích lô hành, rồi những bài thơ của Phương gửi khắp bạn bè lần lượt được công bố cùng với rất nhiều bài viết về cuộc đời và những đêm thơ Nguyễn Văn Phương đậm nghĩa tình. Đã mười năm Phương trở về với bụi đất, nhưng thơ và những câu chuyện về Phương Xích lô thì vẫn còn ở lại trần gian.

L.H.L  
(SDB 6-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.