Mùa xương rồng nở hoa

09:52 08/10/2010
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

Nhà văn Nguyễn Quang Hà

Trong tập “Mùa xương rồng nở hoa”, “Những giọt sương long lanh” là một bút ký khá hay. Xuất phát từ câu tục ngữ độc đáo của đồng bào dân tộc Katu: “Bơ rle cấng a đang” (Hạt sương long lanh như hạt gạo), Quang Hà dẫn chúng ta đi suốt hai mươi trang ký để đạt đến một nhận thức lý trí tình cảm sâu sắc.

“Bưng bát cơm gạo lúa nước hôm nay, tôi miên man nhớ câu tục ngữ mà tôi đã thuộc từ xưa “Hạt sương long lanh như hạt gạo”. Phải qua hàng chục năm trời tôi mới hiểu, mới thấm thía một điều đơn giản ấy”.

Tôi đọc liền mạch suốt hai mươi trang ký, không thể ngừng nghỉ được, bởi thêm mỗi đoạn ký là thêm một sự phát hiện mới mẻ.

Truyện ký “Mùa xương rồng nở hoa” và bút ký “Trên đồng nước nổi” nếu đi liền nhau sẽ nổi rõ cái hay của một câu đối hoàn chỉnh. Một vế đối là hiện thực ở vùng hạn gay hạn gắt, còn vế kia là hiện thực ở nơi lụt gớm lụt ghê. Thế nhưng cái câu đối này không phải loại câu đối về ý, mà cả hai vế đối chung đúc lại đã làm nổi bật cái bản lĩnh của con người Bình Trị Thiên đang vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở ký “Mùa xương rồng nở hoa”, Quang Hà biết đi từ những chi tiết sống động, tiêu biểu của hiện thực để tổ chức được một hình tượng văn học có chất lượng tư tưởng - nghệ thuật cao.

“Một loài hoa gan góc, quyết sống như để đóng góp cho mặt đất này một triết lý.

Dù sống trên cát khô, hoa xương rồng vẫn không kém gì hoa súng quanh năm dầm mình dưới nước. Mùi hoa xương rồng dịu, thoảng thơm hoa lý. Nó có cách sống riêng thì nó cũng có hương thơm riêng chứ sao”.


Có lối kết cấu tương tự với “Mùa xương rồng nở hoa” là bút ký “Tháp xanh”. Hình tượng ngọn “tháp xanh” chứa đựng ý nghĩa chủ đạo của bài ký.

Bút ký “Dấu những bàn chân” cho thấy khả năng nắm bắt và phản ánh cái mới của hiện thực khá nhanh nhạy của Nguyễn Quang Hà. Bài bút ký được viết vào tháng 7-1981, ở thời điểm này, chủ trương khoán sản phẩm đến tay người lao động của Đảng đang là vấn đề thời sự, không ít người còn chưa hiểu chủ trương khoán ấy. Nhưng Nguyễn Quang Hà đã thấy rõ “sức bật của khoán” và anh đã thể hiện được sức bật ấy thông qua những chi tiết hiện thực được lựa chọn kỹ. Vì vậy “Dấu những bàn chân” có sức thuyết phục. Chẳng hạn những chi tiết như tiếng kẻng ra đồng “trở thành lạc lõng” cái kẻng có thể dùng làm tư liệu “bảo tàng” được, hay như đàn trâu cày tuy béo “nhưng có nhiều con trên da còn những mảng mốc thếch, đó là dấu tích những vẩy ghẻ lở ngày xưa”.

Truyện ngắn “Hạnh ơi” và truyện ký “Anh Tuyên” đi liền nhau cho ta một hình ảnh khá trọn vẹn về người lính cách mạng. “Hạnh ơi” là một truyện ngắn khá cảm động. Ngòi bút Nguyễn Quang Hà tách vào được tới vẻ đẹp sâu kín của tâm hồn người lính cách mạng. Anh Tuyên - chủ nhiệm hợp tác xã Đại Đồng - là hình ảnh nối tiếp của anh Hạnh được cá thể hóa bằng những thể hiện cụ thể của tính cách “mê làm kế khoán” của anh, nên là một nhân vật để lại được ấn tượng rõ nét trong tâm trí người đọc.

Hai truyện ngắn “Nhịp tháng ngày” và “Thư gửi chị” có lối kết cấu và tư tưởng chủ đề khá gần gũi nhau. Hương trong “Gửi chị” đã trải qua một quá trình tư tưởng cọ xát với hiện thực lớn lao, đẹp đẽ để tìm chân lý. Thành công đáng khích lệ của Nguyễn Quang Hà trong truyện ngắn này là ở chỗ anh đã hiểu khá kỹ Hương - nhân vật Quang Hà vốn chưa thật quen thuộc. Thành công này chứng tỏ Quang Hà đã có nhiều cố gắng trong sự thâm nhập, tìm hiểu hiện thực; nó cũng chứng tỏ khả năng đi xa của tác giả. Tuy vậy, đọc hai truyện ngắn này, người đọc băn khoăn không hiểu tại sao một người như Ngô đã từng tham gia tích cực phong trào sinh viên lại có thể “bán tống bán tháo đồ đạc để di tản”, và trong tâm trạng “lên đây, em sẽ được đương đầu với một thế lực cộng sản để tìm một câu trả lời cho mối hoài nghi, xem có thật họ là người tài giỏi hay chỉ là những kẻ ăn mày”, Hương lại đồng thời tự ý thức rất rạch ròi “góp sức mình mở đất để mai mốt đây sẽ làm giàu cho đất nước”. Vẫn biết rằng hiện thực phong phú vô cùng và trong cuộc sống có nhiều điều xảy ra ngoài tầm hiểu biết và sự phán đoán của chúng ta, nhưng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà văn khi đề cập đến cái phi lý phải giải thích một cách chân thật tính hợp lý của cái phi lý đó.

Bên cạnh những mặt mạnh và yếu trên, về phương diện nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của tác giả, tập sách này còn có một số nhược điểm nhất định. Văn của Nguyễn Quang Hà chưa được anh chăm chút, gọt giũa một cách đúng mức, cho tinh xảo. Tuy nhiên so sánh những non yếu ấy với những thành công mà “Mùa xương rồng nở hoa” đã đạt được, tôi vẫn thấy có cơ sở để nhận định: văn Nguyễn Quang Hà có nhiều hứa hẹn trong quá trình sáng tác sắp tới.

Tháng 12-1983
K.P.
(6/4-84)



--------------------
(1) Tập thơ Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng – 1975.
(2) Tập truyện ký – Nhà xuất bản Thuận Hóa 1982.





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.