Một vài đặc điểm của văn học nga đương đại* - nhìn từ phương thức biểu hiện

08:44 29/09/2008
HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.

Một đất nước Nga mới ra đời mang trên mình những niềm tự hào, kiêu hãnh và cả những vết tích thương đau.
Sau những chao đảo, đổ vỡ trước hiện thực xã hội đã thay đổi vào thời gian cuối những năm 80 và những năm đầu 90, đến cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga dần dần đi vào ổn định và phát triển, đang từng bước lấy lại thế và lực trên trường quốc tế, khẳng định tính cách và bản chất của dân tộc Nga, tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc mình.

2. Với tư cách là một hoạt động tinh thần thuộc kiến trúc thượng tầng chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố chính trị, kinh tế xã hội…, văn học nghệ thuật nói chung và văn học Nga nói riêng cũng trải qua những biến đổi sâu sắc. Quá trình biến đổi của văn học diễn ra rất phức tạp trong bối cảnh xã hội đương thời. Một mặt, văn học Nga phải gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của mình qua các thời kỳ, mặt khác nó phá vỡ những cái trói buộc, lạc hậu để hướng đến cái mới và nhanh chóng hoà nhập vào dòng chảy của văn học thế giới. Sự phức tạp và đa dạng về tư tưởng, phong cách thể loại và khuynh hướng nghệ thuật của văn học Nga những thập niên cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI phản ánh bối cảnh xã hội mà nó ra đời. Về mặt này có thể so sánh với bức tranh văn học Nga đầu thế kỷ XX.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề của văn học Nga đương đại tập trung chủ yếu vào những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI như: quan niệm về một nền văn học thống nhất; sự phong phú về phong cách và thể loại; những trào lưu văn học nổi bật, những thành tựu sáng tác (chủ yếu là văn xuôi).

2.1. Từ giữa những năm 80 trở đi, đặc biệt từ sau khi Liên bang Xô Viết tan rã (1991), một nước Nga mới ra đời. Trong lĩnh vực văn học một vấn đề đặt ra là nhìn nhận, đánh giá thế nào về nền văn học Nga trong thế kỷ XX. Trải qua cơn chấn động ban đầu, do sự tác động của những tư tưởng thù địch bên ngoài, xuất hiện một số quan điểm đòi phủ nhận giai đoạn văn học Nga thời kỳ Xô Viết, muốn hạ bệ những nhà văn lớn như: M.Sholokhov, M.Gorki, V.Maiacovski…, giới văn nghệ sỹ và nghiên cứu phê bình Nga đã có một cái nhìn mang tính tổng thể, khách quan và khoa học đối với nền văn học Nga thế kỷ XX. Một quan điểm nhất quán được đa số người đồng tình ủng hộ là nên xem xét, đánh giá văn học Nga thế kỷ XX là một hệ thống thẩm mỹ thống nhất được cấu thành bởi ba bộ phận: văn học Nga đầu thế kỷ, văn học Nga thời kỳ Xô Viết (bao gồm văn học Nga Xô Viết chính thống và mảng văn học phục hồi) và văn học Nga ở Hải ngoại. Nó tiếp thu những truyền thống tinh hoa của văn học Nga thế kỷ XIX, những yếu tố tiến bộ, hiện đại của văn học thế giới để làm giàu thêm kho tàng trí tuệ của văn học Nga thế kỷ XX. Những tác phẩm của các nhà văn thuộc nhiều thế hệ, nhiều khuynh hướng nghệ thuật ở những giai đoạn lịch sử khác nhau như: A.Kuprin, I.Bunhin, V.Nabocov, A.Solzhenicin, M.Gorki, M.Sholokhov, B.Pasternak, M.Bulgacov, V.Platonov, A.Tolstoi, X.Exenin, V.Rasputin… đã phản ánh chân thực và sinh động hiện thực Nga muôn màu muôn vẻ với nhiều kịch tính, những biến động dữ dội của lịch sử xã hội mang tính bước ngoặt và trọng đại của dân tộc Nga.

Trong bộ Lịch sử văn học Nga thế kỷ XX (M.1999) tác giả V.S.Baevski khi nghiên cứu văn học Nga trong sự đa dạng về phong cách thể loại, tư tưởng nghệ thuật thuộc nhiều thế hệ trên cùng “một chiếu văn chương” đã đi đến khẳng định, văn học Nga thế kỷ XX là một sự thống nhất, không còn bị xé lẻ mà trở nên hoàn chỉnh và đa dạng hơn. Gần đây, trong bài Văn học Nga thế kỷ XX như một văn bản thống nhất (Tạp chí Những vấn đề văn học, số 5, tháng 9,10/2000), Tiến sĩ Ngữ văn I.Kondkov cũng khẳng định: “… Và khi ấy chúng ta sẽ được nhìn thấy tận mắt xem Bunhin và Majakovski, Gorki và Solzhenicin, Mandelshtam và G.Ivanov, Bulgakov và A.Tolstoi, Platona và Fadeev, Sholokhov và Babel… cùng nắm tay nhau nhảy một vũ điệu Khorovod vĩnh cửu và bất tận trong văn học Nga thế kỷ XX không phải như là những kẻ thù mà như là những người không thể tách rời đã tạo nên nền văn học đó và nếu thiếu  một bộ phận nào trong số đó thì bức tranh về văn học Nga thế kỷ XX sẽ không đầy đủ”. Bàn về sự thống nhất của văn học Nga không chỉ về không gian văn hoá mà còn cả về đội ngũ sáng tác và các nhà văn lưu vong, nhà văn Ch.Aimatốp cho rằng: “V.Nabocov là bó lúa của văn học Nga… Tôi cũng thấy rằng, ông là một nghệ sỹ lớn của ngôn từ, một nhà phong cách học thú vị nhất… V.Nabocov được đưa về giữa dòng văn học của chúng ta là một điều hoàn toàn chính đáng”.
Như vậy vào cuối thế kỷ XX, bức tranh văn học Nga trong suốt thế kỷ đã được đánh giá một cách khoa học, chính xác góp phần quan trọng vào việc trả lại đúng vị trí của tiến trình văn học Nga với tất cả sự phức tạp và phong phú, đa dạng của nó về phong cách, thể loại và khuynh hướng văn học.

2.2. Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ, đổi mới và công khai từ cuộc cải tổ mang lại, bên cạnh việc phục hồi danh dự nhà văn, cho in lại nhiều tác phẩm trước đây bị cấm; đưa mảng văn học Nga ở Hải ngoại hoà nhập vào dòng chảy văn học Nga thống nhất; đánh giá lại mảng văn học chính thống, văn học Nga đã có khởi sắc mới. Đó là sự thống nhất hoàn chỉnh; sự phong phú đa dạng về thể loại, phong cách; sự tiếp nối, đan xen giữa các thế hệ nhà văn, và xuất hiện nhiều khuynh hướng văn học. Chính trong sự phức tạp, đa dạng đó đã thể hiện sự tìm tòi về hình thức phản ánh, tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị đạt được những giải thưởng lớn trong nước và thế giới.
Về thể loại và phong cách, phải khẳng định rằng, thể loại văn xuôi (chủ yếu là tiểu thuyết và truyện ngắn) chiếm số lượng nhiều nhất về tác giả, tác phẩm với nhiều phong cách khác nhau. Theo điều tra của tờ báo Tin tức (Nga), trên cơ sở lấy ý kiến của các nhà nghiên cứu phê bình và độc giả về những nhà văn được ưa chuộng, đánh giá cao thì đã có gần 70 tác giả văn xuôi, trên 35 nhà thơ và hơn 70 nhà văn viết ở các thế loại khác. Điều đó, một mặt nói lên vị trí của văn xuôi chiếm ưu thế trên văn đàn, mặt khác thể hiện sự phong phú về thể loại. Có thể kể một số tác phẩm như: tiểu thuyết Adegraun, hay nhân vật thời đại chúng ta (Vlađimir Makanin), Bestseller (giải thưởng quốc gia năm 1999 của Iuri Davydov)…; truyện ngắn Hàng chất lượng cao, Đàn ông và đàn bà (A.Azolski), Câu chuyện tình yêu (I.U.Buida), Thánh đảo Hêlen (Ana Matveeva, Búp bê Barbi, Hai thượng đế, Linh hồn mới (L.Petrusevscaia), Chiếc tủ, Người trong bao giữa thời nay (Viacheslav Pesuk)…

Chính những nhà văn xuôi này đã góp phần quan trọng vào việc khẳng định những giá trị thẩm mỹ và nhân bản của văn học, đưa văn học Nga hiện đại tiếp bước truyền thống văn học các giai đoạn trước ở thời đại mới.
Sự tiếp nối thế hệ trong các quan hệ cha – con, ông – cháu, già - trẻ, trai – gái… thể hiện khá rõ trong văn học Nga những năm cuối thế kỷ XX. Bên cạnh thế hệ các nhà văn lão thành đã từng tham gia nội chiến, chiến tranh Vệ quốc và viết nhiều vào nửa đầu thế kỷ như V.Astaphiev, V.Bưcov, G.Baclanov… là những nhà văn ra đời trong hoặc sau thế chiến thứ hai như V.Makanin, L.Petrusevscaia, V.Pesuk, L.Uliscaia, B.Ekimov… Hai thế hệ này trở thành rường cột của văn xuôi Nga cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Những tác phẩm của những nhà văn này chủ yếu đi theo “truyền thống hiện thực” hướng đến những vấn đề đạo đức nhân sinh. Trên văn đàn cũng có sự góp mặt so tài của những nhà văn thế hệ những năm 50, 60 như V.Buida, V.Pelevin, T.Tolstaia… và một số nhà văn sinh ra vào những thập niên 70, 80 (thế kỷ XX) như Anna Matveeva (1975). Đội ngũ các nhà văn Nga rất hùng hậu về số lượng và chất lượng. Họ là những người chèo lái con thuyền văn học Nga cuối thế kỷ XX từng bước vượt qua sóng cả và bão tố để đến bến bờ vinh quang.

2.3. Trong bức tranh văn học Nga những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI nổi bật ba khuynh hướng nghệ thuật cơ bản: khuynh hướng thuộc “dòng hiện thực truyền thống”, khuynh hướng hậu hiện đại và khuynh hướng hậu hiện thực. Cả ba khuynh hướng trên cùng tồn tại, phát triển và không loại trừ nhau, đều hướng đến một sự tìm tòi, khám phá hiện thực với các phương thức phản ánh khác nhau. Nếu trước đây khi còn tồn tại nước Nga Xô Viết và Liên bang Xô Viết, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa trở thành phương pháp thống lĩnh thì bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XX trở đi xuất hiện và nở rộ nhiều trào lưu nghệ thuật với những đặc trưng phản ánh đặc sắc. Một mặt, văn học tiếp tục những truyền thống hiện thực - một truyền thống được khơi nguồn từ thế kỷ XIX và phát triển gần suốt thế kỷ XX của văn học Nga và đã đạt được những thành tựu rực rỡ; mặt khác dưới những ảnh hưởng của đời sống hiện thực và sự xâm nhập của các trào lưu nghệ thuật hiện đại phương Tây, văn học Nga đương đại đã có những hình thức chiếm lĩnh thực tại rất đa dạng.

- Khuynh hướng “dòng hiện thực truyền thống” vẫn chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn. Phần lớn đi theo khuynh hướng này là những nhà văn thuộc thế hệ cha anh đã có thành tựu nghệ thụât trong giai đoạn trước như V.Astaphiev, V.Bưcov, G.Baclanov, B.Akimov, I.Davydov… Sáng tác của họ tiếp tục truyền thống hiện thực, và cho rằng văn học có trách nhiệm hướng dẫn đạo đức tinh thần cho toàn xã hội và mang tính tư tưởng cao. Truyền thống này đã đi qua sáng tác của những bậc thầy văn chương như A.Puskin, L.T.Tolstoi, N.Gogol, A.Chekhov, V.Maiacovski đến những sáng tác trong những năm 60, 70 viết về chiến tranh vệ quốc của V.Bưcov, I.U.Bondarev, V.Rasputin và về nông thôn của V.Suksin, V.Astaphiev, V.Trifonov. Đến lượt mình, các nhà văn thế hệ những năm cuối thế kỷ XX đã tiếp nhận một cách có ý thức di sản văn học nghệ thuật giàu có đó và phát triển nó trong điều kiện lịch sử vô cùng phức tạp của dân tộc mình.

Việc nhà văn V.Rasputin được giải thưởng Solzhenicin vào năm 2000 (Giải thưởng do nhà văn Solzhenicin sáng lập mang tên ông vào tháng 10/1997 là giải thưởng cá nhân lớn nhất ở nước Nga hiện nay) không chỉ vì những đóng góp của ông vào nền văn học Nga thời gian trước đó mà còn là sự khẳng định tài năng của nhà văn thể hiện qua những sáng tác gần đây như Có một bộ lông gấu, Tiếng đồn, Izba… Giải thưởng trao cho V.Rasputin không đơn giản chỉ là sự thừa nhận tài năng của nhà văn mà còn nhằm khôi phục lại truyền thống hiện thực, công lý của văn chương và vì “sự thể hiện sâu sắc chất thơ và bi kịch của đời sống nhân dân, vì sự gắn bó với thiên nhiên và ngôn ngữ Nga; vì sự phục hồi lại những  giá trị tinh thần, nhân bản” (Đánh giá của hội đồng giải thưởng Solzhenicin).
Là nhà văn cùng thế hệ với V.Rasputin, được đánh giá là một trong những đại diện xuất sắc nhất của “thế hệ nhà văn tuổi bốn mươi” vào những năm 70, nhưng phải đến hai thập niên cuối thế kỷ XX, V.Makanin mới thể hiện tài năng và sự sung sức của mình. Hàng loạt tác phẩm ra đời gây tiếng vang lớn của V.Makanin như Người trong bao (1982), Một người đàn ông và đàn bà, Kẽ hở (1991), Chiếc bàn phủ nỉ có bình nước để ở giữa (1993 - Tiểu thuyết được giải Booker), Tù binh Kavkaz, Andegaraun, hay nhân vật thời đại chúng ta (1998 - Tiểu thuyết được giải thưởng quốc gia 1999) được giới nghiên cứu phê bình đánh giá là một hiện tượng của văn xuôi Nga hai thập niên cuối thế kỷ. Tiếp tục truyền thống hiện thực, trong tác phẩm Andegaraun, hay nhân vật thời đại chúng ta, nhà văn tuyên bố muốn đưa ra chân dung nhân vật thời đại mình. Nhân vật Petrovich trong cuốn tiểu thuyết trên của ông có chỗ giống và khác với nhân vật Petsorin của Lermontov (Người anh hùng của thời đại) và Raskonikov của Ph.Dostoievski (Tội ác và trừng phạt). Đó là những nhân vật băn khoăn, trăn trở với những vấn đề mang tính triết lý và nhân sinh của nhân loại.

- Khuynh hướng hậu hiện đại bắt đầu hình thành từ cuối cuộc thế chiến thứ hai trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nghệ thuật, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, văn học, đến những năm 80 của thế kỷ XX, chủ  nghĩa hậu hiện đại được thừa nhận là một hiện tượng xã hội thẩm mỹ của nền văn hoá phương Tây, nhất là trong lĩnh vực triết học, mỹ học và phê bình văn học. Nó nhằm khám phá, phát hiện tác phẩm ở cấp độ tổ chức văn bản nghệ thuật, tổng hợp tư tưởng, tình cảm mang nội dung vũ trụ quan. Khuynh hướng hậu hiện đại phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Nga cuối thế kỷ XX biểu hiện trong sáng tác của T.Tolscaia, L.Uliscaia, A.Matveeva, S.Antov, A.Inin, V.Pelevin. Các nhà văn hậu hiện đại Nga có cái nhìn đa chiều và có nhiều cách lí giải hiện thực. Vì thế, tác phẩm của họ là một sự tổng hợp của nhiều ý tưởng và tham vọng, kết hợp nhiều vấn đề và các hình thức nghệ thuật khác nhau. Trong sáng tác của V.Pelevin, tính huyền thoại, giả tưởng, ngụ ngôn và sự nhại lại những môtíp trong văn học Nga cổ điển kết hợp với nhau tạo nên một giá trị thẩm mỹ mới của tác phẩm. Đồng thời V.Pelevin cũng quan tâm đến những vấn đề như: mối quan hệ giữa cuộc sống và văn học; giữa thế giới người sống và người chết; giữa Xô Viết và không Xô Viết; giữa hiện thực và tưởng tượng; giữa chuẩn mực và phi lý; giữa cổ điển và hiện đại, giữa tất định và bất định…
Mặt khác, trong khi lí giải những vấn đề trên, nhà văn có cái nhìn rất đa dạng vừa mang tính cụ thể vừa khái quát.

Một số tác phẩm của nữ văn sĩ Anna Matveeva thuộc những người “hậu sinh” như  Đảo thánh Helen, Đèo Diatlova… là những thể nghiệm thành công trên mảnh đất hậu hiện đại màu mỡ và hấp dẫn đối với thế hệ những người cầm bút trẻ của văn học Nga. Ở nhà văn này có sự kết hợp một cách khéo léo giữa những sự kiện có thực với hư cấu nghệ thuật tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức thuyết phục cao. Viết về đời sống và con người Nga hiện đại, đặc biệt là số phận những người phụ nữ, văn xuôi của A.Matveeva thể hiện sự sắc sảo trong việc tái hiện những diễn biến sâu kín của tâm lý nhân vật. Những truyện của nhà văn vừa nhẹ nhàng, hóm hỉnh, văn phong mượt mà, trữ tình nhưng không thiếu chất bi kịch đã để lại cho người đọc những cảm xúc sâu xa, lắng đọng về tình đời và tình người. Cũng giống như một số nhà văn hậu hiện đại khác, A.Matveeva cũng sử dụng tính giễu cợt và sự nhai lại các môtíp văn học Nga cổ điển khi khám phá hiện thực.

- Bên cạnh hai khuynh hướng nghệ thuật trên, những sáng tác khác được xếp vào khuynh hướng hậu hiện thực. Đó là những nhà văn trẻ tiêu biểu như L.Petrusevscaia, V.Pesuk, I.U.Buida, V.Tokarêva… Những sáng tác của các nhà văn trẻ này đã có những tìm tòi về nghệ thuật như văn phong, cốt truyện, phân tích tâm lý… thể hiện sự tiếp nhận truyền thống truyện ngắn Nga được bắt đầu từ A.Chekhov.
Sáng tác của I.U. Buida thuộc thế hệ sinh ra những năm 50 của thế kỷ XX đã có những bước đột phá trong việc tìm tòi phản ánh hiện thực. Với cái nhìn nhân bản hướng đến những giá trị chân thiện mỹ, Buida đã phát hiện trong những “con người trong bao”, “vô tích sự”, những con người khiếm khuyết, dị dạng bị số phận nhai cho nhừ tử, những vẻ đẹp tinh thần trong sáng. Tập truyện Cô vợ chưa cưới người Phổ (giải Buker), một số truyện ngắn như Khimych, Câu chuyện tình yêu...và tiểu thuyết DonDomino, Errmo, Borich và Glev… đã thể hiện tính độc đáo của văn xuôi hiện thực cuối thế kỷ XX. Từ những hình thức nghệ thuật đặc sắc, kết hợp cái hiện thực với huyền ảo, tưởng tượng, đan xen yếu tố hài hước phúng dụ và chất huyễn tưởng, văn xuôi Buida đã trở nên hấp dẫn với người đọc. Có lẽ chính việc tìm kiếm, chắt lọc vẻ đẹp, điều thiện và phẩm giá cao quý của con người từ cái ác, cái xấu để tạo nên những tác phẩm văn chương giàu tính nhân văn trong sáng tác của Buida cũng là một thiên chức mới mẻ của văn chương cuối thể kỷ XX.

Bắt đầu sáng tác vào những năm 60 với một số truyện ngắn, nhưng phải đến những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, L.Petrusevscaia mới thực sự trở thành nhà văn được nhiều người đọc hâm mộ. Những tác phẩm của bà lần lượt xuất hiện làm thành một bức tranh phong phú, nhiều bình diện về cuộc sống của nước Nga đương đại. Đó là những tác phẩm nổi bật: Vòng luẩn quẩn (1988), Thời khắc ban đêm (1992), Caramdin (1994), Truyện cổ tích (1997), Ngôi nhà của các cô gái (1998 - tuyển tập truyện ngắn).
Với ngôn ngữ văn xuôi mang tính ẩn dụ, đôi khi mang tính hành chính, khô khan và lạnh lùng, kết hợp với những thủ pháp sân khấu được sử dụng trong văn xuôi, Petrusevcaia đã tạo ra những tác phẩm văn chương giàu chất hiện thực, phảng phất tính trữ tình, lãng mạn nhưng không kém phần chua xót trước những đổi thay của cuộc đời.
Những khuynh hướng nghệ thuật được phân chia, đánh giá như trên cũng chỉ mang tính tương đối. Trong thực tế có sự xâm nhập, đan xen giữa các phong cách nghệ thuật, giữa các trào lưu và thậm chí trong cùng một nhà văn. Tuy vậy, những khuynh hướng văn học đó thể hiện sự tìm tòi không chỉ trong nội dung phản ánh mà đặc biệt ở nghệ thuật biểu hiện.

3. Những chuyển động của lịch sử nước Nga diễn ra mạnh mẽ từ cuối những thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi kéo theo những bước biến đổi của tiến trình văn học Nga làm nảy sinh những vấn đề và nhân tố mới. Những xáo trộn, ngộ nhận thời kỳ ban đầu là điều không tránh khỏi trong lĩnh vực nhận thức lí luận và cả thực tiễn sáng tác. Nhưng cùng với sự ổn định của đời sống chính trị xã hội và đất nước đang trên đường phát triển, văn học Nga đã dần trở lại với vai trò tiên phong của mình trong lĩnh vực hoạt động tinh thần và sẽ trở thành một nền văn học lớn trong thế kỷ XXI trên cơ sở tiếp tục những truyền thống của văn học Nga phát triển qua hai thế kỷ.
H.V.L

(nguồn: TCSH số 225 - 11 - 2007)

 



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn Nga đương đại (Đào Tuấn Ảnh dịch), NXB Thuận Hoá và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Huế.
2. Nhiều tác giả (2004),
Truyện ngắn Nga đương đại (Nhiều người dịch – Song ngữ), NXB Thế giới và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (2003),
Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết, NXB Hội nhà văn và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
4. Lê Sơn (2002),
Nỗi đau và niềm tin, NXB Văn học, Hà Nội.
5. Nhiều tác giả(2005),
Lương tâm nổi giận, NXB Sài Gòn (Những bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu Nga).
* Chúng tôi khảo sát Văn học Nga những thập niên cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")