Một thời để thương

09:18 02/06/2010
NGUYỄN QUANG HÀ                          Hồi ký(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)

Nhà văn Nguyễn Quang Hà

Thời chiến tranh, gia đình vợ con xa vời vợi, dù có muốn chăm sóc lo toan cũng chịu. Cũng chẳng ai nghĩ rằng mình sẽ làm cái này, cái kia. Chỉ mong mau hết chiến tranh, trở về với quê hương, với công việc mình đang làm dở dang trước lúc cầm súng lên đường. Vì vậy, hầu như mỗi chúng tôi chỉ có hai việc: Một là đánh giặc phía trước, hai là đánh xong trận rồi thì về hậu cứ quây quần bù khú với bạn bè, chăm sóc và lo toan cho nhau.

Cái vé vào cổng làng văn nghệ Thừa Thiên của tôi là bài thơ "Chiến lũy" viết về một điểm chốt kiên cường trong chiến dịch Mậu Thân. Tôi nhận tờ Cờ Giải phóng in bài thơ này không phải qua đường bưu điện, không phải do một nhân viên liên lạc nào mang qua. Mà chính Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa tới. Bấy giờ cơ quan tham mưu Thành đội Huế đang đóng ở lối khe Xương Voi rẽ vào. Tôi tiếp khách chỉ bằng một bếp lửa rừng. Không thịt, không cá, không xôi, không sắn. Chúng tôi nhậu bằng cái tình của nhau túy lúy. Ít lâu sau tôi được quyết định chuyển "biệt phái" từ lính của thành đội sang báo Cờ Giải phóng.

Ở với văn nghệ sĩ, báo chí tôi được sống một cuộc sống hòan toàn mới. Bởi vì tôi được ở bên cạnh những người thật sự tài năng và cao cả. Tôi nói cao cả, bởi đời họ chỉ có một ham muốn được cống hiến tài năng của mình, và không một phút nào họ không lo tự rèn luyện tài năng ấy. Họ nặng tình với nhau và sống thật hồn nhiên. "Chúng tôi ăn bằng những tiếng cười". Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đấy.

Cho đến tận bây giờ tôi vẫn gọi cái thời đó là:"Thời yêu thương". Hình như lúc ấy chúng tôi chỉ sống để mà yêu thương. Kể cả Thành đội trưởng Thân Trọng Một cũng là con người như thế. Tôi nhớ bữa tôi bị sốt rét, ông từ trên khu về, đi qua, nghe tin ông rẽ vào thăm. Ông định đãi chúng tôi một bữa cơm. Song chú Chiến liên lạc nói với ông rằng trong gùi chỉ còn hai lon gạo, ông vui vẻ quyết định: "Thế thì nấu cháo". Nấu cháo cũng phải nấu sao ăn cho bưa. Chiến đổ vào cả một soong đầy nước. Cháo chín lễnh loãng. Nước đi đằng nước, gạo đi đằng gạo. Nhìn soong cháo ông cười: "Tau đố mi răng cho cháo đặc được chừ?" Ông lôi trong gùi của ông ra một cân thịt bò khô của quân khu trưởng, thiếu tướng Hồ Tú Nam tặng riêng ông đề phòng những lúc ốm đau. Ông đổ hết vào nồi cháo. Một nồi cháo đại, thơm lừng. Đó là bữa đại tiệc trong cái thời yêu thương ấy.

Cứ hễ có dịp là trong ký ức lại bùng dậy kỷ niệm một thời yêu thương. Làm sao quên được Ngô Kha, trong một chuyến đi công tác về Hương Thủy, giữa trận bom đạn mù trời, cái sống và cái chết cách nhau tích tắc ấy, chưa tan khói bom, Ngô Kha đã rũ bụi đứng dậy đọc câu thơ tự hào:

            "Những tưởng không mong xum họp nữa
            Ai ngờ đạn tránh cụ Ngô Kha"

Nhớ chuyện nói lái của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Đắc Xuân. Khi Xuân đọc xong tập "Cao điểm cuối cùng" của Phù Thăng, cái tên ấy làm Xuân cười một mình. Xuân nói với Tường: "Phù Thăng tức là thằng Phu phải không?" Tường đáp: "Cậu thì có hơn gì: Thằng Xuân là thùng xăng. Hay chi hơn nhau đâu mà so bì".

Nhớ Trần Vàng Sao hay nói chuyện tếu táo. Anh chàng yêu cách mạng một cách đam mê. Tên thật là Nguyễn Đính, khi tham gia cách mạng anh đã lấy tên Vàng Sao, và trần trụi là lời nguyện làm cộng sản của mình. Trần Vàng Sao nổi tiếng ở bài thơ: "Bài thơ của người yêu nước mình". Đọc bài thơ nghiêm trang ấy, ai ngờ có lúc anh đã nhại thơ bạn để chọn một bạn gái trong cơ quan:

            "Ở tận Sông Hồng em có biết
            Quê hương anh cũng có người yêu
            Anh mãi gọi với lòng tha thiết
            Kù Tiễn Thiêu so với Kiều Tiễn Thu"

Nhớ Doãn Yến và Khánh Thông. Một bữa, người bạn Ka Tu chạy về cơ quan báo tin khẩn cấp: "có hai người của Y20 (tức Thành ủy Huế) một người thấp thấp như ri (vừa nói vừa lấy tay làm động tác) răng hô hô, một người râu như ri đầy cằm, họ ăn phải trái độc". Anh em trong cơ quan biết ngay là Khánh Thông và Doãn Yến. Chạy tới, hai người đang sùi bọt mép bất tỉnh nhân sự. Đó là loại hạt rừng ăn thơm và bùi như lạc rang. Rất độc. Không biết, ăn vào chết như chơi. Biết sớm nên Thông và Yến thoát chết. Nói đến Khánh Thông, làm sao quên được mối tình chớm nở của anh với Gái ở rẫy Chà Tàng. Bỗng Thông được đi làm nhà cho trường Đảng của Ban tuyên huẫn, mối tình bị chia hai, tức cảnh anh em làm thơ tặng Thông:

            "Không giường không chiếu mà bui (vui)
            Có giường có chiếu trên xui làm trường".

Hai câu thơ tặng Thông cũng nói được một cảnh vất vả của văn nghệ sĩ Thừa Thiên, vừa phải làm công tác chuyên môn, vừa phải vất vả phát nương làm rẫy trồng sắn tự túc lương thực ở chiến trường.

Nhớ Lê Huy đi xin bắp của đồng bào, xin được cả một nạm to lá thuốc xanh. Anh để thuốc và bắp cùng một gùi. Về luộc bắp ăn, cả cơ quan say đứ đừ suốt một ngày.

Nhớ Trình Phở ngày ngày cắp súng vào rừng bắn sóc, bắn dôộc về thay chất đạm nuôi cả cơ quan.

Nhớ chuyến tôi với Sĩ Thái, NGuyễn Khoa Điềm theo anh Tống Hoàng Nguyên đi công tác cánh Bắc. Suốt dọc đường đi pháo địch bắn chặn đường. Đêm ngủ một hầm chữ A giữa bãi bom B52, tưởng thế là thoát, ai ngờ đêm đến, lại trúng đường B52 rải bom.Quần áo chiều giặt phơi ngoài cửa hầm bay mất hết. Thái bị bệnh quáng gà, đêm đêm về sâu, phải dắt qua vùng trắng, đến lúc gặp ánh đèn, Thái mới tỉnh táo được. Vậy mà không đêm nào không đi vùng sâu...

Những kỷ niệm kể suốt ngày không hết.Cho đến hôm nay, có dịp tụ hội lại kể với nhau như dòng sông không bao giờ cạn. Vậy mà báo Cờ Giải phóng vẫn ra đều đều mỗi tháng hai kỳ đúng hạn. Các tập san văn nghệ Thừa Thiên Huế không lỡ dịp trình làng. Đặc biệt tập thơ "Những ngày giữ đất" được xuất bản trong hoàn cảnh gian lao ấy. Điều kỳ diệu nhất là năm 1970 Huế tổ chức được đại hội văn nghệ trên đỉnh ngọn Tre Linh, giữa mênh mông rừng núi chiến khu.

Đúng hẹn, các "cây" văn nghệ từ các đơn vị chiến đấu rủ nhau kéo về. Lực lượng văn nghệ nòng cốt bây giờ là các phóng viên, biên tập của tờ Cờ Giải phóngCứu lấy Quê hương. Có thể kể ra đây: Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Khánh Thông, Nguyễn Đắc Xuân, Sĩ Thái, Văn Thái, Trần Thân Mỹ, Nguyễn Quang Hà, Tống Hoàng Nguyên,Doãn Yến.Có lẽ duy nhất lúc ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường có tập ký: "Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu". Tường rủ tôi hai đứa in chung một tập thơ, song ý tưởng ấy đang thuộc thì tương lai. Các tác giả: Kim Cúc, Trần Nguyên Vấn, Quế Lâm, Nguyễn Khoa Điềm đang làm tạp chí văn nghệ Trị Thiên tít mãi trên khu ủy. Trần Vàng Sao sau chiến dịch 1968 đã ra Bắc.

Dẫu ít người, đại hội văn nghệ Thừa Thiên vẫn được tiến hành. Đại biểu các đơn vị chiến đấu lên được 20 người. Ngồi trong đại hội chỉ chừng ba chục người. Đại hội rất muốn có đại biểu đang đầu sóng ngọn gió đấu tranh trong thành phố như Lê Ghềnh, Trần Hoài, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ, nhưng làm sao có được.

Hội trường đại hội là ngôi nhà tạm trực của cơ quan ở ngay bên đường trục chiến khu.Anh em đã ra rừng chặt từng khúc gỗ dài gần bằng chiều rộng ngôi nhà lợp lá nón làm ghế ngồi. Hậu cần của đại hội, nếu tôi nhớ không lầm thì Thành ủy vận động nhân dân xã Hương Hữu tặng cho đại hội 10 gùi sắn, Thành ủy tặng một con heo 15 cân. Vốn liếng đại hội chỉ có ngần ấy, song gương mặt ai cũng hồ hởi, như không đếm xỉa gì tới khó khăn trước mắt.

Nội dung chính của đại hội được tất cả đại biểu đề cập tới là: "Chúng tôi đã có vốn sống của cuộc kháng chiến thần thánh này, vậy làm thế nào để có được tác phẩm bây giờ?

Những tham luận tại đại hội không nhiều, tập trung vào các đề tài: Chúng ta không viết về cuộc kháng chiến này thì chờ ai viết đây. Sự thôi thúc ấy như thổi một luồng lửa nóng hổi vào đại hội, ai cũng thấy trách nhiệm của mình là phải cầm bút. Các tác giả tự đọc những bài thơ để trong đáy ba lô, bây giờ mới là dịp họ được trình diễn tác phẩm sáng tác trong âm ỉ giữa hai cuộc chiến trận. Người nọ tiếp lửa cho người kia bằng chính cuộc sống mãnh liệt của mình.

Đêm mới thật sự là cuộc thảo luận sôi nổi. Giữa nhà đốt một đống lửa lớn thay đèn. Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha cùng chủ trị cuộc thảo luận, trả lời câu hỏi của từng đại biểu, và tham gia ý kiến riêng mình. Đêm càng khuya lửa càng đỏ, cuộc thảo luận thiết thực càng trở nên sôi nổi.

Giường nằm cho các đại biểu, ai nấy tự lo. Võng từ trong ba lô đưa ra. Ngôi nhà làm hội trường đó, ai muốn mắc góc nào thì mắc. Đống lửa giữa nhà chia chung hơi ấm cho từng người.

Sau hai ngày làm việc, các đại biểu lại tỏa về đơn vị chiến đấu của mình. Nguyễn Văn Khởi vừa khoác ba lô về đến chỗ đóng quân của đơn vị thì gặp địch tấn công. Máy bay trực thăng thả chất cháy xuống. Cả người Khởi cháy bùng như ngọn đuốc. Anh là người văn nghệ sĩ đầu tiên của Huế hy sinh ngay sau đại hội trở về.

Còn tất cả chúng tôi lao vào phục vụ cho việc tuyên truyền, chống trả cuộc hành quân Lam Sơn 719 lên Lào, hòng phá vỡ hành lang vĩ tuyến 17, tràn quân ra Bắc. Song 719 của địch đã thất bại hoàn toàn.

Đại hội văn nghệ Thừa Thiên Huế tuy đơn giản, nhưng đã tạo nên một động lực vô giá. Từ đại hội này, liên tiếp những tác phẩm văn, thơ ra đời. Và từ đây đã xuất hiện các nhà văn đang ảnh hưởng sâu sắc đến văn nghệ ở vùng đất cố đô này. Có thể kể ra đây các nhà văn đã trưởng thành lên từ ngày ấy: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Phương Trà, Nguyễn Quang Hà, Hà Khánh Linh, Võ Quê.

Từ bấy đến nay đã 30 năm. 30 năm mở đầu một chặng đường không mệt mỏi đã đóng góp những tác phẩm xứng đáng cho dòng văn học chống Mỹ cứu nước.

Đại hội văn nghệ Thừa Thiên Huế năm 1970 là một cột mốc rất đáng tự hào cho một thời yêu thương và đứng dậy.

N.Q.H
(141/11-00)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Sông Hương xứ Huế đã bao đời miệt mài làm nên những nét tinh tế và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đó là dòng chảy giao hòa và dung hợp của nét văn hóa truyền thống dân gian với văn hóa cung đình với những con người Huế với những nét đặc trưng không lẫn với bất cứ nơi nào về giọng nói, tiếng cười, điệu hò và những món ăn Huế hấp dẫn.

     

  • ILIA ÊRENBUA
            Trích hồi ký

    Tôi đã viết, tôi đón đợi đại hội các nhà văn Xô-viết hệt như một cô gái đón đợi buổi vũ hội đầu tiên trong cuộc đời. Nhiều trong số những niềm hy vọng ngây thơ của tôi, có thể đã không được thực hiện, nhưng đại hội vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi như một ngày hội lớn, kỳ lạ.

  • HOÀNG LONG 

    Đây là một tiểu thuyết cực tiểu, gồm năm thiên. Và không có tên. Cũng như mọi thứ trên đời này đều như vậy. Tự thân không có tên. Chúng ta đặt tên cho chúng và ban cho vạn vật một ý nghĩa nào đó với chúng ta. Tất cả là do tâm tạo tác. Cái vọng tưởng đó của ta chẳng liên quan gì đến thế giới. Vì thế giới vận hành trong sự không tên.

  • NHÂN KỶ NIỆM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/2013

    HỒNG NHU
              Bút ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                            

    Vừa mới hôm nào nhận thư Phong Sơn báo tin năm nay sẽ được mùa lớn. Lúa phơi màu rất đẹp.

  • VÕ NGỌC LAN

    Đi trong thành phố xanh này, ở đâu cũng thấy một màu xanh dịu mát. Có lẽ nhờ thế mà mưa nắng cứ đến rồi đi, cỏ hoa cứ bốn mùa làm xanh thêm cuộc hành trình mưa nắng.

  • BẢO CƯỜNG 

    Tiếng sáo làm bạn với con người ngay từ tuổi ấu thơ. Tiếng sáo gợi hồn quê hương dân tộc. Chỉ với một ống trúc giản dị, mục đồng đã chế tạo thành một ống sáo để thổi. Những ngày lùa trâu ra đồng các em ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo nghe réo rắt, vang xa đến tận cuối làng.

  • MAI VĂN HOAN

    Nhà thơ Hồ Chí Minh từng viết: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xưa yêu cảnh thiên thiên đẹp). Có thể nói thiên nhiên tràn ngập trong thơ xưa - đặc biệt là mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Riêng về cỏ, các nhà thơ xưa rất ít nhắc đến.

  • NGUYỄN KIM CƯƠNG  

    Những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968, quân dân ta tấn công và nổi dậy khắp các thành thị miền Nam, buộc lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn phải phân tán đối phó.

  • CÁI NẾT  

    Trên cánh đồng lúa Mụ Dâu ngút ngàn, lạ thay, người ta không thấy màu xanh non của mạ, chỉ thấy một rừng hoa dài đến tận chân trời…

  • NGUYỄN THỊ THÁI  

    Bao lâu rồi dã quỳ nồng nhiệt, dã quỳ rủ rê, dã quỳ khắc khoải, dã quỳ đớn đau. Tây Nguyên thấp thỏm màu vàng, mỗi người có một lần đợi mong, người thiếu phụ mang trong ngực tháng mười mơ ước, nhập vào sắc hoa hoang dại mênh mang thương và nhớ.

  • NGUYỄN DƯ

    Đi đâu mà vội mà vàng
    Mà vướng phải hố, mà quàng phải xe

    Ngày nay, nhiều người sợ đi ngoài đường. Khác ngày xưa…

  • NGUYỄN TRƯƠNG KHÁNH THI

    Chiều hôm ấy mưa to lắm…
    Được cô cho nghỉ sớm, tôi rời lớp học thêm vật lý và đi dạo cùng đứa bạn thân. Thấy lề đường ướt sũng mà trái tim tôi cũng ướt theo. Nhìn qua thấy đứa bạn đang nói chuyện điện thoại với cha của nó… thì ra, hơn nửa tuổi thơ này… tôi đã không có cha! Trời hôm nay thật lạnh nhưng chỉ lạnh bằng một góc nào thật nhỏ của tháng ngày trước, cái ngày mà cha tôi ra đi… nỡ để lại trước mắt đứa con gái bé nhỏ của ông một cái xác không hồn…

  • HOÀNG HỮU CÁC

    Tiếng chân giày của trung tá Nguyễn Đình Sơn bước bồn chồn trên nền đất ẩm của căn hầm kiên cố dùng làm sở chỉ huy của đoàn B15 bộ binh là âm thanh duy nhất tôi nghe được ở đây trong chiều hôm nay.

  • THÁI KIM LAN

    Con thương yêu,
    Mẹ đang ở Huế, ngồi trong nhà của ngoại viết thư cho con. Con ơi, rời mùa Thu Munich về đây, lại thấy Huế cũng Thu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
                  bút ký

    Hồ Tịnh Tâm lại đã đến mùa sen nở. Những cánh sen trắng khiêm tốn lấp ló giữa bạt ngàn lá xanh dịu. Mới đó, năm ngoái, sau cơn bão số 8, ngôi nhà lục bát trên hòn đảo giữa hồ bị đổ nát, cảnh hồ thật tiều tụy. Quy luật xoay vần của thiên nhiên quả là kỳ diệu.

  • TỐNG TRẦN TÙNG

    Xin được giải thích ngay cụm từ “đi mót” ở đây. Theo từ điển tiếng Việt thì nghĩa thứ hai của từ mót là “nhặt nhạnh của để rơi vãi hoặc bỏ sót”.  Tuy vậy, ở quê tôi, khi nói đến đi mót thì người ta nghĩ ngay đến đi mót ngày mùa, mùa gặt lúa, mùa cày khoai, mùa nhổ lạc…

  • THÍCH CHƠN THIỆN
                            Tùy bút

    Kinh Pháp Cú (Dhammapada), một bản kinh phổ biến nhất trong các nước Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền (Phật giáo thế giới) ghi: “Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ rong ruỗi theo dục cảnh, người có tâm tà kiến hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài”. (câu 339)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH  

    Trên bàn tay Phật pháp vô biên hẳn còn nhiều hướng đi khác tích cực hơn và Tạ Thị Ngọc Thảo đã chọn phương pháp Vòng Thời Gian (hay Đạo pháp Calachakra) trong Mật giáo.

  • VIỆT HÙNG

    “Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...