TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
Đọc hết 10 truyện ngắn của Tru Sa rồi mới gặp tác giả. Một chàng trai có gương mặt sáng láng, cặp mắt thông minh, nhạy cảm, nụ cười hiền khô, và cách nói chuyện tự nhiên, thoải mái về những gì mình nghĩ, mình biết. Mới được biết, mười truyện ngắn chỉ là một phần trong vô số những thứ mà chàng ta đã viết. Cũng lại ngạc nhiên vì chàng từng mới tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du. Và Tru Sa, cũng hoàn toàn tình cờ, là tác giả trẻ thứ ba, nảy ra từ ngôi trường này đã gây cho tôi sự chú ý (trước là Đàm Thùy Dương và Du Nguyên).
Truyện của Tru Sa đầy ám ảnh. “Ảo giác mù” là tên của cả tập, mặc dù không có truyện nào trong tập có tựa đề này theo cách các tác giả khác, đặt tên cho các tập truyện bằng tên của một truyện nào đó trong tập.
Văn chương của Tru Sa, đặc biệt ở chỗ, nó được viết ra từ những ảo giác, từ trí tưởng tượng. Không một truyện nào kể theo lối truyền thống, trên nền một cốt truyện, hoặc những truyện có một cốt cụ thể. Truyện của Tru Sa viết bằng ảo giác, và tràn ngập ảo giác.
Vì là ảo giác, nên nó cũng như hiện thực được nhìn bởi một kẻ mù lòa, mà tôi tin là một người mù không nhìn được bằng con mắt thường như người thường mà họ nhìn bằng linh giác, bằng con mắt thứ ba, bằng nơi sâu thắm nhất của vô thức. Vô thức ở nơi đó phát triển một cách rực rỡ.
Tất cả những truyện của Tru Sa đều viết về nỗi đau rất sâu của con người trong những kiếp nạn trần gian. Trong “Tự bạch”, tác giả viết: “Căn gác là chốn nương náu của tôi. Một lô cốt được rào cẩn mật như thành trì. Kẻ không nương náu đã có chốn nương náu”; “Đây là viên thuốc được luyện từ nỗi thống điên, cũng là viên thuốc chữa đau khổ bằng cơn đau đớn trút bỏ”; “Bút là kiếm, cũng là áo giáp và ngựa sắt. Giấy là ngựa sắt và áo giáp, cũng là khiên và kiếm. Tôi sẽ chém nát cái nắp màu trong đã phù mù bụi đen”…
Cái mà chàng chiến đấu, phải đập nát, phải phá vỡ… là gì vậy? Tất cả những không gian của “Ảo giác mù” thường rất nhỏ, rất chật, rất thiếu ánh sáng, thiếu khí trời. Không gian trong “Khởi đầu”, là một cái hang, ở đó người ta phải đeo những cái kính, nhìn mọi thứ qua lớp kính bảo vệ đó, khi chết ở trong tư thế chết treo (như những con dơi). Nhân vật tôi, phá bỏ, xé toang cái kính của mình, cho nó rơi tơi tả, và bay thẳng lên (khỏi hang) để đón nhận ánh sáng chói chang, rực rỡ của mặt trời).
“Bản âm” là cuộc chiến giữa tinh thần, sự hướng thượng với dục vọng bản năng, với sự tha hóa vô luân của đời sống. Tiếng gào của lũ mèo hoang, cơn mất ngủ, những cuộc làm tình của người anh trai với mọi hạng phụ nữ, sự sám hối và cái chết của người đàn ông lạ trên tầng nhà bỏ hoang. Và cái kết là sự ra đi như một cuộc đào thoát nhọc nhằn trên con đường là những mái nhà của nhân vật tôi.
Không gian trong “Tường sắt”, “Người gù”, trong “Suỵt”… chỉ là không gian trong một căn nhà, nhưng chạy dọc theo thời gian của nhiều thế hệ của một dòng. Là những tập tục, những thói quen, những chuẩn mực… thâm căn cố đế từ tổ tiên, cụ kỵ, ông bà, trong truyện của Tru Sa, nó trở thành ngục tù, giam hãm, đày đọa, bóp ngẹt tinh thần con người. Trong “Người gù”, nó còn là ngục tù của những cái được gọi là di sản, những thứ đã được phủ lên lớp bụi mù của thời gian. Những giá trị mà nó dường như chỉ còn là bụi, nhưng lại vẫn còn sức nặng vô hình đè nặng chúng ta.
Chiến đấu với những thứ này còn khó khăn, nhọc nhằn hơn cả những cuộc chiến tranh với bom đạn, những cuộc hủy diệt. Những cái đầu bị bẻ đi rồi lại mọc lên như những con zombie.
Kinh khủng nhất là trong cái không gian ngột ngạt, chật hẹp, thiếu không khí đó, con người để cái tôi của mình có chỗ nương náu, nó phải tạo ra một cái vỏ, một cái áo giáp khác, để che chở cho cái bên trong dễ thương tổn. Sự giả dối, tính hai mặt trong mỗi cá thể, trong những không gian đó, dần dà trở thành một thuộc tính của con người, thành lô cốt để họ có thể tự vệ.
Truyện “Tường sắt”, người mẹ, để bảo toàn cho mình và cho đứa con trai, đã suốt đời im lặng, không bao giờ giám nói cho bất cứ ai về cái chết bi thảm của chồng mình. Người ông quyền uy trong cái gia tộc dám giết cả con trai mình để bảo vệ xác tín của cá nhân ông ta, nhân danh một thứ giá trị mơ hồ nào đó của dòng họ, tổ tông.
“Kẻ bên ngoài” cũng là một truyện hay. Là một góc nhìn và lí giải khác về tính hai mặt của con người. Cái ác sinh ra đã ở sâu thẳm trong bản năng, là mặt kia trong cái thuộc tính hai mặt này. Kiểu như, có những người yêu nhau, không phải họ yêu kẻ kia vì kẻ kia, mà bới anh/cô ấy có những đặc điểm giống hoặc đối lập với mình.
Hoặc, người lương thiện ít khả năng nhìn thấy sự bất lương của kẻ khác hơn là chính những kẻ bất lương nhìn thấy nhau. Tính hai mặt chứa giấu, ẩn sâu trong vô thức của con người bình thường. Bởi vậy “kẻ bên ngoài” chỉ là mẫu tượng để cái bên trong ẩn giấu được phát lộ. Câu chuyện của người cha vốn hiền lành, điềm đạm bỗng nhiên lén lút đánh “kẻ bên ngoài”, và không chỉ ông ấy, mà dường như ai trong cái khu nhà đó cũng từng làm cái việc đó, và họ đều thấy việc đó là dã man, là vô nhân đạo. Đỉnh điểm, là nhân vật tôi, mặc dù hiểu rất rõ nguyên do của câu chuyện, nhưng rồi cái ác trong anh ta, vẫn bị đẩy đến chỗ không thể kiểm soát, và anh ta vẫn cứ phạm phải cái mà anh ta biết là tội lỗi. Điều kỳ lạ thứ hai, đó là, “kẻ bên ngoài” trong truyện không hề chết, dù ai cũng muốn trừ khử y. Bạo lực, sự căm hận, không thể trừ khử được cái xấu xa. Lí giải của truyện, sự phát hiện của nhân vật tôi là một phát hiện đáng kể. Truyện ngắn này hoàn toàn có thể phát triển thành một tiểu thuyết triết học.
“Xe ngựa”, theo tôi là một truyện tiêu biểu cho lối viết ma mị, đầy ảo giác của Tru Sa. Một chiếc xe ngựa chở số hành khách không xác định, mục dích của chuyến đi không xác định, hoặc không có đích. Nhân vật chính đi đến xứ Minh Quốc, nhưng xứ ấy ở đâu không ai biết. Họ cứ đi như vậy trên những chặng đường, gió, mưa, bão bùng, hiểm nguy. Những người chết, hoặc bỏ cuộc, cho đến khi Cốt Đột, gã đánh xe ngựa gục ngã… Con ngựa bờm xác xơ bắt đầu mọc lên những túm lông mới để bắt đầu một hành trình mới. Một không khí kỳ lạ bao trùm không gian truyện, từ nhân vật đánh xe ngựa Cốt Đột cho đến những hành khách trên xe không danh tính, không mục đích của hành trình. Âm dương, quỉ người lẫn lộn, lửa địa ngục và nhân gian mịt mù…
Trạng thái u u minh minh, nửa tối, nửa sáng, nửa thức nửa ngủ, phủ lên không chỉ “Xe ngựa” mà còn ở nhiều truyện khác, tạo nên khí vị của Tru Sa.
“Ảo giác mù” là tựa đề tập truyện, tuy nhiên, xuyên qua tầng tầng lớp lớp ảo giác, tối sáng, tác giả Tru Sa, làm hiện lên một thế giới trong cái nhìn triết học của nhà văn. Một thế giới nhị phân trong từng con người, và rồi từ đó phóng chiếu lên trên một cái phông rộng lớn là cõi người với những bi kịch, thống khổ mà nó phải gánh nặng đời đời kiếp kiếp.
31/10/2016
T.A
(SHSDB24/03-2017)
VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.