Một tác giả trẻ đáng chú ý

09:08 07/04/2017

TUỆ AN

Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)

Đọc hết 10 truyện ngắn của Tru Sa rồi mới gặp tác giả. Một chàng trai có gương mặt sáng láng, cặp mắt thông minh, nhạy cảm, nụ cười hiền khô, và cách nói chuyện tự nhiên, thoải mái về những gì mình nghĩ, mình biết. Mới được biết, mười truyện ngắn chỉ là một phần trong vô số những thứ mà chàng ta đã viết. Cũng lại ngạc nhiên vì chàng từng mới tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du. Và Tru Sa, cũng hoàn toàn tình cờ, là tác giả trẻ thứ ba, nảy ra từ ngôi trường này đã gây cho tôi sự chú ý (trước là Đàm Thùy Dương và Du Nguyên).

Truyện của Tru Sa đầy ám ảnh. “Ảo giác mù” là tên của cả tập, mặc dù không có truyện nào trong tập có tựa đề này theo cách các tác giả khác, đặt tên cho các tập truyện bằng tên của một truyện nào đó trong tập.

Văn chương của Tru Sa, đặc biệt ở chỗ, nó được viết ra từ những ảo giác, từ trí tưởng tượng. Không một truyện nào kể theo lối truyền thống, trên nền một cốt truyện, hoặc những truyện có một cốt cụ thể. Truyện của Tru Sa viết bằng ảo giác, và tràn ngập ảo giác.

Vì là ảo giác, nên nó cũng như hiện thực được nhìn bởi một kẻ mù lòa, mà tôi tin là một người mù không nhìn được bằng con mắt thường như người thường mà họ nhìn bằng linh giác, bằng con mắt thứ ba, bằng nơi sâu thắm nhất của vô thức. Vô thức ở nơi đó phát triển một cách rực rỡ.

Tất cả những truyện của Tru Sa đều viết về nỗi đau rất sâu của con người trong những kiếp nạn trần gian. Trong “Tự bạch”, tác giả viết: “Căn gác là chốn nương náu của tôi. Một lô cốt được rào cẩn mật như thành trì. Kẻ không nương náu đã có chốn nương náu”; “Đây là viên thuốc được luyện từ nỗi thống điên, cũng là viên thuốc chữa đau khổ bằng cơn đau đớn trút bỏ”; “Bút là kiếm, cũng là áo giáp và ngựa sắt. Giấy là ngựa sắt và áo giáp, cũng là khiên và kiếm. Tôi sẽ chém nát cái nắp màu trong đã phù mù bụi đen”…

Cái mà chàng chiến đấu, phải đập nát, phải phá vỡ… là gì vậy? Tất cả những không gian của “Ảo giác mù” thường rất nhỏ, rất chật, rất thiếu ánh sáng, thiếu khí trời. Không gian trong “Khởi đầu”, là một cái hang, ở đó người ta phải đeo những cái kính, nhìn mọi thứ qua lớp kính bảo vệ đó, khi chết ở trong tư thế chết treo (như những con dơi). Nhân vật tôi, phá bỏ, xé toang cái kính của mình, cho nó rơi tơi tả, và bay thẳng lên (khỏi hang) để đón nhận ánh sáng chói chang, rực rỡ của mặt trời).

“Bản âm” là cuộc chiến giữa tinh thần, sự hướng thượng với dục vọng bản năng, với sự tha hóa vô luân của đời sống. Tiếng gào của lũ mèo hoang, cơn mất ngủ, những cuộc làm tình của người anh trai với mọi hạng phụ nữ, sự sám hối và cái chết của người đàn ông lạ trên tầng nhà bỏ hoang. Và cái kết là sự ra đi như một cuộc đào thoát nhọc nhằn trên con đường là những mái nhà của nhân vật tôi.

Không gian trong “Tường sắt”, “Người gù”, trong “Suỵt”… chỉ là không gian trong một căn nhà, nhưng chạy dọc theo thời gian của nhiều thế hệ của một dòng. Là những tập tục, những thói quen, những chuẩn mực… thâm căn cố đế từ tổ tiên, cụ kỵ, ông bà, trong truyện của Tru Sa, nó trở thành ngục tù, giam hãm, đày đọa, bóp ngẹt tinh thần con người. Trong “Người gù”, nó còn là ngục tù của những cái được gọi là di sản, những thứ đã được phủ lên lớp bụi mù của thời gian. Những giá trị mà nó dường như chỉ còn là bụi, nhưng lại vẫn còn sức nặng vô hình đè nặng chúng ta.

Chiến đấu với những thứ này còn khó khăn, nhọc nhằn hơn cả những cuộc chiến tranh với bom đạn, những cuộc hủy diệt. Những cái đầu bị bẻ đi rồi lại mọc lên như những con zombie.

Kinh khủng nhất là trong cái không gian ngột ngạt, chật hẹp, thiếu không khí đó, con người để cái tôi của mình có chỗ nương náu, nó phải tạo ra một cái vỏ, một cái áo giáp khác, để che chở cho cái bên trong dễ thương tổn. Sự giả dối, tính hai mặt trong mỗi cá thể, trong những không gian đó, dần dà trở thành một thuộc tính của con người, thành lô cốt để họ có thể tự vệ.

Truyện “Tường sắt”, người mẹ, để bảo toàn cho mình và cho đứa con trai, đã suốt đời im lặng, không bao giờ giám nói cho bất cứ ai về cái chết bi thảm của chồng mình. Người ông quyền uy trong cái gia tộc dám giết cả con trai mình để bảo vệ xác tín của cá nhân ông ta, nhân danh một thứ giá trị mơ hồ nào đó của dòng họ, tổ tông.

“Kẻ bên ngoài” cũng là một truyện hay. Là một góc nhìn và lí giải khác về tính hai mặt của con người. Cái ác sinh ra đã ở sâu thẳm trong bản năng, là mặt kia trong cái thuộc tính hai mặt này. Kiểu như, có những người yêu nhau, không phải họ yêu kẻ kia vì kẻ kia, mà bới anh/cô ấy có những đặc điểm giống hoặc đối lập với mình.

Hoặc, người lương thiện ít khả năng nhìn thấy sự bất lương của kẻ khác hơn là chính những kẻ bất lương nhìn thấy nhau. Tính hai mặt chứa giấu, ẩn sâu trong vô thức của con người bình thường. Bởi vậy “kẻ bên ngoài” chỉ là mẫu tượng để cái bên trong ẩn giấu được phát lộ. Câu chuyện của người cha vốn hiền lành, điềm đạm bỗng nhiên lén lút đánh “kẻ bên ngoài”, và không chỉ ông ấy, mà dường như ai trong cái khu nhà đó cũng từng làm cái việc đó, và họ đều thấy việc đó là dã man, là vô nhân đạo. Đỉnh điểm, là nhân vật tôi, mặc dù hiểu rất rõ nguyên do của câu chuyện, nhưng rồi cái ác trong anh ta, vẫn bị đẩy đến chỗ không thể kiểm soát, và anh ta vẫn cứ phạm phải cái mà anh ta biết là tội lỗi. Điều kỳ lạ thứ hai, đó là, “kẻ bên ngoài” trong truyện không hề chết, dù ai cũng muốn trừ khử y. Bạo lực, sự căm hận, không thể trừ khử được cái xấu xa. Lí giải của truyện, sự phát hiện của nhân vật tôi là một phát hiện đáng kể. Truyện ngắn này hoàn toàn có thể phát triển thành một tiểu thuyết triết học.

“Xe ngựa”, theo tôi là một truyện tiêu biểu cho lối viết ma mị, đầy ảo giác của Tru Sa. Một chiếc xe ngựa chở số hành khách không xác định, mục dích của chuyến đi không xác định, hoặc không có đích. Nhân vật chính đi đến xứ Minh Quốc, nhưng xứ ấy ở đâu không ai biết. Họ cứ đi như vậy trên những chặng đường, gió, mưa, bão bùng, hiểm nguy. Những người chết, hoặc bỏ cuộc, cho đến khi Cốt Đột, gã đánh xe ngựa gục ngã… Con ngựa bờm xác xơ bắt đầu mọc lên những túm lông mới để bắt đầu một hành trình mới. Một không khí kỳ lạ bao trùm không gian truyện, từ nhân vật đánh xe ngựa Cốt Đột cho đến những hành khách trên xe không danh tính, không mục đích của hành trình. Âm dương, quỉ người lẫn lộn, lửa địa ngục và nhân gian mịt mù…

Trạng thái u u minh minh, nửa tối, nửa sáng, nửa thức nửa ngủ, phủ lên không chỉ “Xe ngựa” mà còn ở nhiều truyện khác, tạo nên khí vị của Tru Sa.

“Ảo giác mù” là tựa đề tập truyện, tuy nhiên, xuyên qua tầng tầng lớp lớp ảo giác, tối sáng, tác giả Tru Sa, làm hiện lên một thế giới trong cái nhìn triết học của nhà văn. Một thế giới nhị phân trong từng con người, và rồi từ đó phóng chiếu lên trên một cái phông rộng lớn là cõi người với những bi kịch, thống khổ mà nó phải gánh nặng đời đời kiếp kiếp.

31/10/2016
T.A
(SHSDB24/03-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!