Một sự thể nghiệm phân tâm học Freud trong văn học Việt Nam (*)

17:14 30/09/2008
TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)


Học thuyết S.Freud ra đời ở châu Âu cuối thế kỉ 19 được xem là bước ngoặt của thế kỉ trong việc khám phá con người. S.Freud đã cung cấp cho nhân loại một công trình tuyệt vời để hiểu đến chỗ thẳm sâu nhất của tâm hồn nhân loại. Lý thuyết của ông đã đề cập đến vấn đề nhạy cảm nhất của tâm hồn nhân loại và bị lẩn tránh nhắc đến nhất lúc bấy giờ là vấn đề tình dục. Có thể xem Freud là một trong những người tiên phong căng buồm đến khám phá đại dương mờ tối, bí ẩn của vô thức. Với vai trò như sợi dây Adrian , Freud đã dò tìm ra con đường khám phá thế giới bên trong chưa từng biết tới của con người. Công lao của ông không chỉ dừng lại ở việc khám phá chinh phục mà ông đã soi sáng thế giới ấy để cả nhân loại được biết. Ánh sáng diệu kì ấy phát ra từ trí tuệ tuyệt vời và đã để lại các công trình danh tiếng như: Những nghiên cứu về Hysteri (1885), Nghiên cứu về chứng loạn thần kinh (1885), Ba tiểu luận về tình dục (1905), Dẫn luận phân tâm học (1910), Vật tổ và cấm kỵ (1913), Nguyên tắc thực tiễn và nguyên tắc khoái lạc (1920), Những bài giảng mới về phân tâm học (1932)...

Trong các công trình của mình, Freud đã đề cập đến những vấn đề quan trọng làm thế giới kinh ngạc: Sự hiện hữu của một tâm linh vô thức, sự can thiệp của vô thức vào đời sống ý thức. Tâm linh ý thức của chúng ta có thể tạo nên nhiều lý lẽ rất hợp lý nhưng giả tạo và bịa đặt. Ông chia kết cấu con người ra làm ba hệ thống: hệ thống ý thức, hệ thống tiền ý thức, hệ thống vô thức. Ông đi sâu vào tìm hiểu về vô thức con người từ đó lý giải căn nguyên bệnh tâm thần. Ông cũng tìm hiểu và lí giải nhiều về giấc mơ. Giấc mơ là sự trung gian giữa cuộc sống của những tình cảm được che giấu và cuộc sống được đem đặt dưới sự chi phối của lý trí chúng ta. Nhờ đó chúng ta có thể học được nhiều điều mà khi thức chúng ta từ chối không muốn biết. Không một giấc mơ nào hoàn toàn phi lý, mỗi giấc mơ với tính cách là một hành vi tâm linh trọn vẹn, có ý nghĩa chính xác. Mọi giấc mơ tiết lộ ý muốn thân tình nhất vì vậy giấc mơ là các van tình cảm giúp giải phóng tình cảm của chúng ta khỏi những ám ảnh, phiền muộn bị nhốt cả ngày. Theo Freud, Tính dục (Libido) điều khiển vô thức theo một cơ chế nhất định. Thứ nhất là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là chỉ những hành động nhằm giảm bớt những căng thẳng đau đớn của cơ thể và đem đến những khoái lạc nhưng quy phạm xã hội buộc con người từ bỏ và thay vào đó là những quy phạm tập thể (Nguyên tắc thực tại). Thứ hai là: Bản năng sống và bản năng chết. Nguyên nhân xuất hiện của những bản năng này là do con người phải duy trì giữa ham muốn cá nhân và thực tế cuộc sống. Một trong những điểm chính của lý thuyết Freud nêu ra là sự lý giải về sự xung đột của Cái Ấy (Id), Cái Tôi (Eg) và Siêu tôi (Superego), giữa các xung năng và các lực dồn nén. Sự hình thành, phát triển tạo ra sự cân bằng giữa ba yếu tố cũng là giai đoạn phát triển nhân cách (Theo Freud là bốn giai đoạn: Giai đoạn miệng, giai đoạn hậu môn, giai đoạn âm và giai đoạn dương vật, giai đoạn dậy thì). Đóng góp của Freud thể hiện trên nhiều phương diện: y học, tâm lý học, triết học, xã hội học, văn học nghệ thuật.

Ở Việt , có nhiều tác giả giới thiệu chủ nghĩa Freud cũng như vận dụng vào phê bình sáng tác. Các tác giả và các công trình tiêu biểu như Nguyễn Hảo Hải (Người đàn ông có nhiều ảnh hưởng đến văn chương: Sigmun Freud), Phạm Minh Lăng (Sigmun và Phân tâm học),Nguyễn Ngọc Bích (Tâm lí học nhân cách), đặc biệt là Đỗ Lai Thúy với các công trình biên soạn: Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Phân tâm học và văn hóa  nghệ thuật, Phân tâm học và tình yêu. Góp phần và khẳng định vị thế của mình vào dòng chảy này là nhà nữ nghiên cứu trẻ TRẦN THANH HÀ với công trình Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt .

Phân tâm học là lý thuyết khổng lồ của một người khổng lồ thế kỉ 19, dung lượng 139/348 trang của cuốn sách này quả là nhỏ bé. Tuy vậy, Trần Thanh Hà đã tỏ ra là một người biết thẩm định và chọn tinh những vấn đề cốt lõi nhất để giới thiệu cùng bạn đọc. Chẳng hạn: Sự ra đời và phát triển của phân tâm học, vô thức, giấc mơ, nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại, bản năng sống và bản năng chết, tính dục, những vấn đề đời sống văn học liên quan đến tính dục bộc lộ qua tôn giáo, đạo đức, văn minh, văn học nghệ thuật. Vì thế nó đáp ứng nhu cầu cho những người bước đầu tìm hiểu phân tâm học cũng như có cái nhìn tổng quát về nó.

Phần thứ hai, tác giả chứng minh sự thể hiện của học thuyết này trong văn học Việt . Có thể nói, ở Việt chưa có công trình nào lớn, đáp ứng một lúc hai yêu cầu là tầm rộng và độ sâu để thể hiện ảnh hưởng của chủ nghĩa Freud vào văn học Việt . Sự căng thẳng và áp lực chắc hẳn đã đè nặng lên đôi vai nhà nữ nghiên cứu trẻ. Nhưng, như Stephan Zweig đã viết về Nietzsche: “Cái búa càng nện mạnh xuống ông thì cái khối đồng thau của ý chí ông càng vang vọng trong suốt hơn”, sự căng thẳng, áp lực, khó khăn không hề làm người viết lùi bước mà càng tăng thêm một ý chí, lòng nhiệt tâm cho sự ra đời của một công trình đáp ứng tính thời sự này. Thành công của quyển sách không thể không công nhận, Trần Thanh Hà đã dày công cố gắng chứng minh sự thể hiện của học thuyết Freud vào văn học Việt ở nhiều khía cạnh. Bên trong mỗi luận điểm lớn ấy là một hệ thống mạng lưới các luận điểm nhỏ hơn giăng mắc tạo thành một kết cấu mạng lưới chặt chẽ, khoa học. Mỗi luận điểm riêng nhưng hòa bện, đan kết vào nhau, nâng đỡ làm khai sáng lẫn nhau. Trần Thanh Hà tỏ ra là một nhà khai quặng triệt để, chịu khó, không chỉ thỏa mãn với những kết quả ban đầu tìm kiếm được. Sức dẻo dai, tinh tế của một người phụ nữ; ý chí của một người đàn ông; sự sắc sảo, tài hoa của một nhà nghiên cứu đã đẩy những phát hiện của chị đến tầm sâu cốt lõi của vấn đề. Nếu Freud dò đến đáy sâu tâm hồn nhân loại thì Trần Thanh Hà cũng dò tìm đến những điểm sâu nhất biểu hiện của nó trong văn học Việt . Vì thế, giấc mơ không chỉ dừng lại ở “chức năng điềm báo, màu sắc tôn giáo, bộc lộ niềm tin tín ngưỡng, gửi gắm khát vọng công bằng hạnh phúc của người lao động” (tr248) mà là những giấc mơ tình dục, giấc mơ ám ảnh, giấc mơ khát vọng. Qua cái nhìn sắc nhọn của Trần Thanh Hà cách xử lí tính dục của các nhà văn hiện lên chính xác: “Với Phạm Thị Hoài khi phản ánh con người bản năng xuất hiện trong xã hội đương thời thì bản năng mà chị muốn nói đến bao gồm “mọi lạc thú ăn ngủ đụ ị ở đời” (Mari sến - Phạm Thị Hoài)... Tạ Duy Anh xoay quanh một vấn đề tình dục, bóc trần sức mạnh cũng như sự hủy diệt của nó mà lý thuyết Freud đã đề cập đến. Nhà văn đã diễn tả nhiều nhân vật với đời sống tình dục khác nhau: bình thường như sự kích động và thỏa mãn tình dục... Riêng Hồ Anh Thái viết về lối sống bản năng với mục đích săn tìm cực khoái ở những nhân vật đầy thú tính” (tr 244). Freud đề cập đến việc khi có sự mâu thuẫn giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tiễn là: Khi có ẩn ức dồn nén, con người sẽ tìm cách thỏa mãn, hoặc những ẩn ức đó không được thỏa mãn sẽ làm người bị mắc tâm thần, và một hình thức giải tỏa khác là sáng tạo nghệ thuật. Lý thuyết này được Trần Thanh Hà thể hiện sáng rõ qua ba tác phẩm: Người đàn bà trên đảo, Tấm ván phóng dao, Thân phận tình yêu.

Với người làm khoa học, nhất là lý luận phê bình nói chung và lý luận phê bình văn học nói riêng thì một trong những điều kiện cần thiết là phải tìm cho mình một giọng văn, lối văn phong khoa học chuẩn xác, rành mạch. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đạt đến đỉnh cao. Văn phê bình, lý luận cũng phải đạt đến tính nghệ thuật, giàu chất thơ. Vừa khoa học rành mạch, vừa nghệ thuật, vừa triết lý, vừa ý vị thấm đẫm chất thơ như là hai luồng sợi dọc và ngang dệt nên tấm thảm Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong Việt . Có thể thấy những điều trên qua các dẫn chứng sau: “Tình yêu mạo hiểm biến thành một trò chơi thích thú, biến thành đam mê không gì cưỡng lại được. Đó giống như sự lựa chọn hưng phấn trong một trò chơi thích thú khi cuộc sống không mang đến cho họ những điều gì có ý nghĩa.” (tr 186); “Những con người cô đơn trên mỏm núi cao của dục vọng đã tự thả trôi mình cho xúc cảm khoái lạc bởi “Tình dục vô thức quyết định mọi tình yêu”. Bởi vậy, ở thời đại ngày nay mà yêu một cái lý tưởng, hà tiện, cứ trung thành thì cũng coi như “Trồng cây si một chỗ” (tr 176); “Nỗi đau làm người không phải từ lúc được sinh ra mà từ lúc con người biết ý thức và có ý chí. Biết phân biệt thiện ác nỗi đau mới nảy sinh. Nỗi đau trở thành cần thiết không? Nếu trong một xã hội xuất hiện nhiều cái ác thì nỗi đau thật đáng quý. Nỗi đau không phải ta sinh ra ngoài ý muốn mà là nỗi đau đã sống không được như ý muốn. Tất nhiên có những ý muốn cao đẹp, những ý muốn xấu xa và từ đó cũng nảy sinh những nỗi đau đáng trân trọng và những nỗi đau thường tình” (tr 224) v.v.

Công trình của Trần Thanh Hà ra đời đáp ứng yêu cầu thời sự. Tuy nhiên,
đây chưa phải là công trình hoàn toàn làm thỏa mãn nhu cầu của độc giả. Trong dòng chảy thơ văn từ dân gian đến nay, Trần Thanh Hà chỉ lướt qua các giai đoạn và thể loại để rồi lẩy ra văn xuôi hiện đại. Làm như vậy, vừa là chỗ thành công, sự khôn ngoan của người viết sách (biết chọn điểm sáng, tập trung), nhưng phần nào làm công trình này hạn chế. Khuyết thiếu ở đây là tầm rộng. Ở phần này, tác giả chủ yếu thể hiện học thuyết Freud vào văn học Việt qua các luận điểm về tính dục, vô thức, giấc mơ, nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tế. Với sự nhạy cảm, tri thức sâu rộng, tài năng văn học đã giúp tác giả có nhiều kiến giải hấp dẫn, lý thú. Tuy nhiên, ở một số phần, tác giả hơi tham đi quá nhiều vào Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, gây ra cảm giác hơi hụt cho những phần khác.

Phần nghệ thuật có thể được xem là phần thành công của tác giả. Tuy dung lượng ít nhưng thể hiện bản lĩnh khái quát vấn đề của tác giả. Trần Thanh Hà đã giúp chúng ta thấy được sự cách tân nghệ thuật qua: quan niệm nghệ thuật về con người, không thời gian, kết cấu...
Một cuốn sách mang biết bao tâm huyết của một con người, song không thể tránh khỏi khuyết thiếu. Mặc dù vậy, phải khẳng định là sức mạnh tác phẩm sẽ tự bộc lộ khi chúng ta khám phá. Công trình cho thấy sự nhiệt thành, tâm huyết của tác giả, là một tài liệu có giá trị thời sự và văn học, một cuốn sách nên đọc và nên có.  
T.T.T.N

(nguồn: TCSH số 235 - 9 - 2008)

 


..................
(*) Trần Thanh Hà, Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt , Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H