Một số vấn đề về “Xuân thu nhã tập”

10:15 01/12/2008
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

Trong tiến trình của văn học Việt , tôi nghĩ, hiếm có nhóm sáng tác nào lại độc đáo như Xuân Thu nhã tập. Độc đáo về chủ thể sáng tác, về đặc điểm thể loại và độc đáo về lịch sử số phận tác phẩm. Xuân Thu chỉ tồn tại trong vòng mấy năm (1942-1945), và chỉ gồm mấy tác giả, nhưng lại hội tụ đầy đủ cả “đại gia đình” nghệ thuật: Thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số lượng sáng tác cũng rất “khiêm tốn” nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ, văn xuôi, tiểu luận. Mục đích sáng tác cũng khá độc đáo ”Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: TRÍ THỨC - ĐẠO ĐỨC - SÁNG TẠO.

2. Xuân Thu nhã tập ra đời khi Thơ mới đã rơi vào bế tắc, khủng hoảng. Cái tôi- mảnh đất linh diệu của Thơ mới đã được đào sâu đến tận cùng, và lúc này, đã mất hết sức sống. Trong xu thế đó, Xuân Thu đã trăn trở và tìm một hướng đi mới cho thơ ca dân tộc: “Tìm con đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước vọng nay. Gọi về những tính cách riêng của ta, để có thể xuôi chảy trong cái dòng sống thực của ta, không quanh co, lúng túng vì những ảnh hưởng ngoài” (1).
Là một nhóm nghệ thuật có tính tổ chức, Xuân Thu nhã tập có hẳn một nguyên lí sáng tác, một hệ thống quan điểm nghệ thuật riêng. Ngay từ khi ra đời, Xuân Thu đã mang một tinh thần tiên phong với ý thức cách tân táo bạo. Mục đích cách tân thể hiện trên hai phương diện:
- Không lặp lại cái tôi của Thơ mới
- Chống lại sự đồng hóa của phương Tây để ngăn cái họa mất gốc.    
Xuân Thu nhã tập
là một hiện tượng nghệ thuật tiên phong, một trong những đặc trưng của xu hướng chủ nghĩa hiện đại ở Việt Nam - như cách nói của Nohire Munehiro, một nghiên cứu sinh Nhật Bản, tại Việt Nam (2). Nhìn từ phương diện này, Xuân Thu nhã tập có một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học dân tộc.

3. Giá trị lớn nhất và ấn tượng sâu nhất của Xuân Thu nhã tập, đó là phần tiểu luận về thơ. Bằng những kiến giải độc đáo, Xuân Thu nhã tập đã nêu được những vấn đề lý luận cơ bản của thơ ca như: đặc trưng của thơ so với văn xuôi, mối quan hệ giữa thi nhân và bạn đọc, thơ ca với âm nhạc, hội họa. Có thể rút ra một số luận điểm cơ bản sau của nhóm Xuân Thu nhã tập:
* Thơ là gì?
Câu hỏi cổ xưa này đã được Xuân Thu luận giải một cách khá lý thú. Thơ là sự rung động, sự quyến rũ- không thể cưỡng lại, một cách tự nhiên, hoàn toàn. Thơ - vì thế, không cần để hiểu mà cốt để cảm. Thơ được ví như giai Nhân, như Đẹp, như Trời. Trước lúc chưa kịp hiểu nó là gì, ta đã bị nó quyến rũ, lôi kéo, xâm chiếm: “Áng thơm của hoa, vẻ trong của nước, thần của vạn vật, thơ của văn nghệ. Trước khi thưởng thức hương, nhận chân sắc, dò hỏi trời, phân tích vui, trước khi dùng những phương thức lí trí, có ý thức, có hệ thống để phán đoán, để hiểu biết, ta đã chịu sự quyến rũ của mùi thơm, sự lan tràn của ý thích, ta đã cảm thấy đẹp, đạt được thật, đầm trong thơ, nát bàn nghệ thuật”.

Thơ được Xuân Thu nhã tập đồng nghĩa với Trong, Đẹp, Thật. Thơ là một phạm trù thiêng liêng, cao quí, là một trí thức cao cấp sánh với tình yêu, nẻo đạo và tôn giáo: “Thơ trước hết phải là sự trong trẻo, sự vô tư lợi, sự khêu gợi không cùng, sự rung động tức khắc, sự gặp gỡ đột nhiên, sự hiến dâng không nghĩ đến trở về”.
Đưa thơ vào phạm trù của đạo, xem thơ là một thứ cao siêu như tôn giáo, Xuân Thu nhã tập đã rút ra một nguyên lý căn bản (trong mối quan hệ) giữa thơ ca với vũ trụ:  ĐẠO - ÂM + DƯƠNG - SÁNG TẠO - RUNG ĐỘNG - THƠ - ĐẠO
Nằm trong vòng tương sinh trên, thơ mới đạt đến sự siêu việt, trong trẻo, nhịp nhàng, mới vươn đến cái tuyệt đối, cái đẹp- lẽ cuối cùng.

* Đặc trưng của thơ so với văn xuôi
Từ góc độ tư duy nghệ thuật và chức năng thơ ca, Xuân Thu đã khu biệt nét đặc trưng của thơ so với văn xuôi. Thơ không thuộc về lý trí, mà thuộc về tình cảm: “Văn nói chuyện đời, nhưng thơ chính là tiếng đời u huyền, trực tiếp”. Văn xuôi có tính vụ lợi, thơ không mang tính vụ lợi, không mang nghĩa tục. Văn xuôi thường kích động người đọc một cách thô sơ, dễ dãi; còn thơ:” là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bất diệt của muôn sự vật: cõi vô cùng”.
Tính hàm súc, đa nghĩa, gợi cảm chính là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt thơ và văn xuôi: “Một bài thơ không được hiểu như một bài văn một cách lộ liễu, nhất định. Phải chứa nhiều sức khêu gợi, ý ở ngoài lời, đủ với sự thật sâu sắc, bao la trong toàn thể ”.

* Đặc tính của thơ ca PhươngĐông
Tính cô đọng, hàm súc của thơ, theo Xuân Thu có nguồn gốc sâu xa từ đặc tính của người Á Đông. Ngôn ngữ phương Đông rất phù hợp cho tính chất của thơ, nó có thể:“phát hiện bằng toàn hình ảnh, hương sắc, xếp đặt một cách u uẩn”. Thơ phương Đông thường dồn nén, cốt gợi hơn là tả. Vì thê, theo họ: “Ảnh hưởng phương Tây có thể tốt cho văn hơn cho thơ. Luận điệu phương Tây có thể giúp cho lối diễn đạt tư tưởng của ta được có phương pháp, nhưng không thể và không nên chen vào lối diễn tả cảm giác riêng của ta, cái đẹp riêng của ta. Phần trên là phần chung có tính phổ thông - phần văn. Nhưng phần dưới là đặc biệt từng dân tộc, linh khí từng giang sơn - phần thơ".
Xuân Thu nhã tập khẳng định tính chất uẩn khúc, huyền ảo trong thơ tượng trưng Pháp ở thế kỷ XIX - điều mà lâu nay người ta cho rằng, chúng ta ảnh hưởng của phương Tây, thì thực ra “người Á Đông ta có cái trí cổ sơ, trực giác ngay từ lúc đầu, nhờ một ngôn từ đặc biệt“. Vì vậy, họ kêu gọi: “Tìm thơ vĩnh viễn, ta trở về nguồn: TA”.

* Tính chất tượng trưng, huyền bí...
Trở về với tính hàm súc, tính đa nghĩa của thơ ca cổ điển phương Đông, Xuân Thu nhã tập đã bắt gặp tính ám gợi, tính biểu tượng của chủ nghĩa tượng trưng phương Tây. Đi từ cái Tôi đến cái Ta, từ công thức: “Thơ = Trong = Đẹp = Thật” và bằng tuyên ngôn sáng tác: ”Trí thức, Sáng tạo, Đạo lý“, Xuân Thu đã tạo ra những thi phẩm đậm tính chất tượng trưng, siêu thực. Khát khao đi tìm cái đẹp, họ ngụp lặn trong thế giới vô cùng, chìm sâu trong cõi hư vô, huyền bí: “Quên cái đã gặp, ngã về cái chưa tìm, nhớ cái sẽ mất“. Một số quan niệm về thơ của Xuân Thu nhã tập rất giống với quan niệm của Valéry. Chẳng hạn, quan niệm về tính nhạc, tính huyền diệu, tính trong trẻo, gợi cảm của thơ ca.

Không chỉ gặp chủ nghĩa tượng trưng trong một vài ý tưởng kiến giải về thơ, mà những sáng tác của nhóm Xuân Thu đã biểu hiện rõ thi pháp của chủ nghĩa tượng trưng. Chính Nguyễn Xuân Sanh cũng thừa nhận rằng, Buồn xưa là bài thơ đầu tiên có khuynh hướng tượng trưng.
Hầu hết, các sáng tác của Xuân Thu nhã tập đã vượt lên tính xúc cảm, tính chất giãi bày cái tôi cá nhân của Thơ mới. Xuân Thu đã tiến đến chủ nghĩa tượng trưng ở tính ám gợi, tính biểu tượng, tính mơ hồ, huyền bí. Hoài Thanh cho bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ là một lối thơ rất tinh tế và kín đáo, nhưng hình ảnh mờ:      
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian
của Đoàn Phú Tứ có thể xem là bài thơ trong trẻo, gợi cảm, đáng yêu nhất của Xuân Thu nhã tập. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã “chuyển hóa” bài thơ thành một bản nhạc huyền diệu. Tác giả của Thi nhân Việt Việt đã hạ bút, mà rằng: “Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế”.
Đến Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu của Nguyễn Xuân Sanh thì đã rơi vào cõi siêu thực, hư vô. Người đọc không dễ tìm được mã để giải nghĩa văn bản. Dường như nhà thơ sáng tạo trong một trạng thái vô thức, siêu thăng. Tính triết lý không vượt qua được tính siêu thực để mang lại sự lôgich cho bài thơ. Chẳng hạn ở bài thơ Buồn xưa:
Lẵng Xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa           
Tôi thử làm một thao tác là: đảo lộn thứ tự các khổ thơ trong văn bản nghệ thuật trên, nhưng nghĩa của nó cũng không có gì thay đổi. Chứng tỏ những câu chữ, hình ảnh ở đây được tuôn ra trong một trạng thái vô thức, khó nắm bắt. Nhân vật trữ tình như chìm trong cõi hư vô, tan biến thành từng mảnh để nhập vào các biểu tượng.

Câu thơ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà đã hơn một lần được “siêu độc giả” cắt nghĩa, nhưng xem ra chẳng tìm được nghĩa đích thực (điều đó cũng dễ hiểu, vì Xuân Thu nhã tập chủ trương; thơ không cần rõ nghĩa, chỉ cần gợi cảm và rung cảm). Câu thơ này đã mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau. Và nghĩa đích thực của nó nằm trong các cách cảm nhận của độc giả. Đúng như Xuân Thu nhã tập chủ trương: “Một bài thơ có thể hiểu ra nhiều lối dù có cảm một cách duy nhất. Nên độc giả tùy theo trình độ trí thức mà hưởng thụ ít hay nhiều. Cùng một ánh trăng, cùng một nụ cười, cùng một tiếng đờn, kẻ dung - phu hay người tài tử có lẽ chung một thứ cảm, là rung động, nhưng phong phú không bằng nhau. Nên thi ca cũng phân nhiều bậc. Tiếng thơ trong bài này chẳng qua đã hiểu theo nghĩa cao đẳng vậy. Độc giả lĩnh hội được hay không, tưởng không phải điều quan tâm của thi sĩ. Thi sĩ đi tìm thơ, tìm lẽ thật, tìm mình. Phận sự chỉ ở đó. Nguyên nhân lòng ham mê chỉ ở đó”.
Tôi nghĩ, các tác phẩm của nhóm Xuân Thu không hẳn hoàn toàn rơi vào kín mít, bí hiểm. Điều cơ bản là chúng ta phải tìm ra “mã” của văn bản. Người ta cho rằng, đọc Xuân Thu nhã tập mặc dù không rõ nghĩa nhưng vẫn thấy hay. Khi nghệ thuật đã mang đến cái hay, hẳn đã có lý của nó.

* Thơ ca với âm nhạc, hội họa
Mối quan hệ này không có gì mới, nhưng Xuân Thu có cách kiến giải mới, và khá bất ngờ. Nếu cổ nhân nói: "Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc, thì Xuân Thu nói ngược lại: trong nhạc, trong họa có thơ và thơ “tàng ẩn” ở khắp mọi sự vật hiện tượng: “Thơ có thể có trong âm nhạc, hội họa, trong kiến trúc nói rộng ra ở khắp ngành nghệ thuật, và cả trong đạo lý, trong hành động, một khi đã gạn lắng những cặn đục mà còn tinh hoa”. Một mỹ nhân một con bò không có gì khác, chỉ khác ở chỗ hình ảnh nào mang lại cho ta xúc cảm. Ta cũng không nên băn khoăn về lẽ thiện ác ở các sự vật đó, mà chủ yếu chú trọng đến cái đẹp do nó gây nên (quan niệm này có vẻ giống với Baudelaire - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa tượng trưng - symbolisme).

Âm nhạc, hội họa, thơ ca sở dĩ khác các hiện tượng khác chính là ở chỗ, nó mang lại cho ta cái đẹp vô cùng, cái đẹp tuyệt đối và cái đẹp siêu việt: ”Bằng con đường thẳng của hình ảnh, tiết tấu,... âm thanh, màu sắc, mùi, giọng được hòa hợp thành những biểu hiện nhịp nhàng để khêu gợi những rung động siêu việt của bản nhạc vô - cùng”.
Tuy nhiên, thơ ca khác với âm nhạc, hội họa ở chỗ: “Một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh... theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng, để khơi nguồn lưu thông cái run rẩy huyền diệu của thơ. Nó tràn sóng qua người đọc, được rung động theo nhịp điệu của tuyệt đối”.
Nguyên nhân sâu xa của sự khác nhau, đó là do phương thức biểu hiện. Thơ ca nói riêng và văn chương nói chung có “lợi khí” hơn so với các loại hình khác, đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ có thể giúp ta “cảm thông đến cái vô cùng”, thấu đạt đến “mọi nghĩa lý” và thâm nhập vào cái đẹp tuyệt đối của vũ trụ.

* Thi sĩ với bạn đọc (Chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận)
Xuân Thu
cũng đã lý giải rất độc đáo về mối quan hệ giữa nhà thơ - tác phẩm - bạn đọc. Họ gọi nhà thơ là “thi sĩ”, người đọc là “thi nhân”, còn bài thơ là “khúc hợp tấu của vô cùng”. Cả ba “phải được lên dây cùng cung bậc” để hòa điệu như cây đàn, thi sĩ với tình nhân. Người đọc muốn cảm nhận được cái “trác tuyệt”, cái thần bí tuyệt vời của khúc nhạc ấy, đòi hỏi phải “có chất thơ, có cốt đàn, có nòi tình”. Thi sĩ cũng phải cần đến một tri âm (thi nhân - tức người đọc) để thưởng thức, để cảm thông, để tiếp tục hoàn thiện “khúc nhạc vô cùng” ấy: “Thi sĩ làm xong một bài thơ có thể nói: Bản Đẹp chưa thành, vì còn chờ tác giả thứ hai: người đọc. Cảm xúc chuyển từ người thơ sang độc giả, hòa hợp hai lẽ siêu hình, con sông thơ lộng một trời mới. Người đọc phải là thi nhân, tái tạo vũ trụ bài thơ tạo ra”. Từ góc độ tiếp nhận văn học, chúng ta gọi hiện tượng này là người đọc đồng sáng tạo.

 “Thơ
như thần linh: con đồng là thi sĩ tạo được bài thơ - cảm thông, nối thần linh đến với đệ tử là thi nhân. Thơ như tôn giáo: giáo sĩ thi sĩ tạo nên “bài thơ giác ngộ” cho tín đồ là thi nhân. Thơ như tình yêu: thi sĩ là người cung nữ thả “bài thơ lá thắm”, người vớt lá là thi nhân".
Giữa người đọc và nhà thơ phải tri âm, tri kỷ như Bá Nha và Tử Kỳ. Muốn tạo ra bản đàn tuyệt diệu để “truyền sóng” sang người đọc, thì thi sĩ phải “nhập thần” vào đối tượng: “Thi sĩ cảm trong chiếc lá, khi đã nằm hẳn trong chiếc lá, hòa trộn trong cái lẽ thật muôn đời, là cái tính túy muôn vật, là chất thơ muôn nguồn gốc. Thi sĩ từ trong chiếc lá, mà rung động ra ngoài và đã chiếm đoạt hoàn toàn chiếc lá, đã cùng nó hợp một; có một phút thi sĩ đã là chiếc lá". Có nằm trong thơ, dầm trong nhạc, người đọc mới có thể “biết đầy đủ sự trong trẻo, nhịp nhàng” của thế giới thơ ca.

Đòi hỏi thi sĩ phải “tan hồn vào cảnh vật”, người đọc phải “nhập thần vào bài thơ”, tác giả Xuân Thu đã chạm phải thuyết trực giác của Bergson. Dùng lý thuyết hiện đại của phương Tây để soi vào tính chất “hàm súc, tĩnh mạc, tổng hợp” của thơ ca phương Đông, Xuân Thu đã tìm ra một số hạt nhân hợp lý trong quy luật sáng tạo nghệ thuật.
Tóm lại, đi tìm cái đẹp vô biên - không cùng, cái đẹp tuyệt đối của nghệ thuật, Xuân Thu đã có ý thức khẳng định bản lĩnh sáng tạo. Xuân Thu đã thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới, có tính tiên phong: vượt lên bát nháo của hiện thực, tìm về cội nguồn để hướng tới tương lai.

4. Một số hạn chế của Xuân Thu nhã tập
Thứ nhất,
quan niệm của Xuân Thu về cuộc đời (phần Đại thừa) và quan niệm về nghệ thuật (phần Tiểu thừa) đầy tính chất mâu thuẫn. Chủ trương trở về cội nguồn - ngăn cái họa mất gốc, nhưng Xuân Thu đã ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực của phương Tây. Các khái niệm mà họ đưa ra cũng đầy màu sắc triết học phương Tây, pha lẫn với những ý niệm của Phật giáo phương Đông.
Thứ hai, Xuân Thu đã phân biệt rõ đặc trưng giữa thơ so với văn xuôi, nhưng cuối cùng lại đưa “một trang Bergson, một thiên Trang Tử, một vở Musset, một chuyện Bồ Tùng Linh” vào phạm trù của thơ.

Thứ ba, Xuân Thu
chủ trương: thơ  phải trong - đẹp - thật, nhưng phần lớn sáng tác của họ lại rơi vào bí hiểm. Các bài thơ của Xuân Thu phần lớn khó hiểu, không hợp với thị hiếu và tư duy của công chúng bạn đọc Việt . Bởi vậy, giữa thi nhân (tác giả) và thi sĩ (bạn đọc) đã không thể cùng hòa mình vào chiếc lá (bài thơ) - như Xuân Thu đã bày tỏ ở trên.
Đây cũng là một bài học cho nhóm Thơ tân hình thức (tạm gọi như vậy đối với những cây bút trẻ) hiện đang có ý thức thể nghiệm thơ ca.

Sáng tạo nghệ thuật là một hình thức giãi bày tình cảm. Chủ thể sáng tạo cần có sự chia sẻ và thấu cảm của bạn đọc. Không có bạn đọc thì tác phẩm chỉ là một văn bản chết cứng, một đống giấy loại, một trang nhật ký của cá nhân nghệ sĩ. Động lực lớn nhất của sự sáng tạo và lý do duy nhất của sự tồn tại tác phẩm, đó là sự cộng hưởng của độc giả. Muốn tạo ra sự cộng hưởng, giao thoa đó, người cầm bút phải biết nhu cầu của công chúng. Kinh nghiệm trong lịch sử văn học cho thấy, những tác phẩm có giá trị, chính là những tác phẩm, mà ở đó, tiếng nói của cá nhân nghệ sĩ, bắt gặp tiếng nói chung của đồng loại. Vì sao phong trào Thơ mới thành công lớn như vậy? Nó có nhiều nguyên nhân. Nhưng theo tôi, một trong những lý do căn bản nhất, đó là các nhà thơ mới đã thấu hiểu được niềm khao khát của bạn đọc. Điều này đã thể hiện rõ qua tâm sự của Lưu Trọng Lư: “Người thanh niên Việt Nam chỉ ao ước có một điều, một điều mà khát khao hơn trăm nghìn điều khác, là được một thi nhân hiểu mình...Người thanh niên Việt nam đang bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình như người con đi tìm mẹ, có ai thấy cái cảnh thảm thiết ấy không?” (Phụ nữ tân văn, số 216, 1932).

Tuy nhiên, xét về sự hạn chế của nhóm Xuân Thu nhã tập, các nhà nghiên cứu cũng nên lưu ý một điểm (thuộc về nguyên nhân khách quan). Do bị “ức chế của lịch sử”, thời gian để nhóm này thể nghiệm quá ít. Nung nấu thành lập từ năm 1939, xuất bản tập Xuân Thu năm 1942, sau đó bị làn sóng cách mạng cuốn hút. Như vây, họ đâu còn thời gian tiếp tục tinh thần sáng tạo của nhóm Xuân Thu đề ra?
Xuân Thu nhã tập từng được đánh giá như một “hiện tượng nghệ thuật độc đáo, lý thú”, những “trang viết tuyệt vời”. Xuân Thu cũng đã từng bị xem như những gì tắc tị, tăm tối, bí hiểm. Nếu tránh được những ý kiến cực đoan, biết gạt bỏ những hạn chế tất yếu của Xuân Thu, chúng ta có thể tìm thấy những hạt nhân hợp lý, những giá trị đích thực để vận dụng vào công cuộc đổi mới của văn học hôm nay.
T.H.S

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 



----------------------------------------
(1) Các trích dẫn lấy từ cuốn Xuân Thu nhã tập, NXB Văn học, 1992.
(2) Nohire Munehiro - Một số đặc trưng về tinh thần tiên phong của nhóm Xuân Thu nhã tập, Tạp chí văn học, số 10, 1997, tr.70.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H