Một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết "Một mùa đông ở Stockholm"

11:07 22/09/2008
TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

Qua Một mùa đông ở Stockholm , có thể khẳng định rằng: Agneta là một cây bút tinh tế, sắc sảo, giàu trải nghiệm. Tác phẩm đã bộc lộ một chiều sâu suy tư về thân phận con người, về nỗ lực kiếm tìm chân lý tình yêu và giá trị của cuộc sống, mà trên hết, đó là người phụ nữ. Thông qua số phận một gia đình trí thức, bà đã giúp chúng ta có một sự hiểu biết nhất định về đời sống - văn hóa, về cá nhân - xã hội của đất nước Thụy Điển.
* Agneta Pleijel một nhà tiểu thuyết giàu trải nghiệm
Trước lúc viết tiểu thuyết, Agneta từng là: một nhà nữ quyền, nhà viết kịch, nhà phê bình và một dịch giả nổi tiếng. Bà đã từng dịch kinh Ấn Độ sang tiếng Thụy Điển. Về sáng tác, Agneta đã thể nghiệm nhiều thể loại, nhưng có lẽ, tiểu thuyết là lãnh địa phù hợp nhất với phong cách của bà. Agneta đã từng đoạt giải thưởng tiểu thuyết Thụy Điển vào năm 1998 với tác phẩm “Les Guetteurs de vent” (Những người canh gió), đã được dịch ra mười tám thứ tiếng trên thế giới.

Một mùa đông ở Stockholm (The winter in Stockholm)
là cuốn tiểu thuyết thứ ba, xuất bản ở Thụy Điển vào năm 1997, ở Pháp 2000, và đã được bạn đọc cũng như giới phê bình đánh giá rất cao. Có thể nói, đây là một tác phẩm đánh dấu sự nghiệp sáng tác và phong cách thể loại của nữ văn sĩ Agneta. Bằng một lối viết  trí tuệ và điêu luyện, Một mùa đông ở Stockholm đã chứng tỏ khả năng am tường của tác giả về loại tiểu thuyết.
Câu chuyện Một mùa đông ở Stockholm được dồn nén vào bi kịch tâm trạng (drame de l’état d’âme) của một nhân vật không tên - một thành phần đặc biệt trong xã hội: nữ giáo sư ở trường Đại học Stockholm . Tuy nhiên, ngòi bút của Agneta lại hướng vào chiều sâu nội tâm, đầy thầm kín của cá nhân, hơn là những vấn đề ở phương diện xã hội. Nhân vật chính luôn tồn tại khép kín trong tâm trạng cá thể, các mối quan hệ giữa nó với các nhân vật khác cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ và tô đậm thêm những khát vọng thầm kín, riêng tư.

Hình tượng người đàn bà không tên trong tác phẩm, ám ảnh người đọc ngay từ dòng đầu tiên. Nhân vật hiện diện với tư cách là một kiểu trí thức “tự do và dấn thân” của thời kỳ hậu hiện đại. Đó là một người đàn bà tiềm ẩn những tính cách đối nghịch: yếu đuối và mạnh mẽ, ngây thơ và trải nghiệm, nhẫn nhục mà vẫn giữ được niềm kiêu hãnh; dễ đổ vỡ - tuyệt vọng, nhưng vẫn chủ động vượt qua những tình huống bi kịch, kể cả những lúc đau đớn nhất, tuyệt vọng nhất trong cuộc đời. Một người đàn bà luôn khao khát tình yêu và sự hòa hợp, nhưng lại bị đàn ông dối lừa và chối bỏ. Một người đàn bà phải gánh chịu hai lần của nỗi đau: Nỗi đau về cuộc hôn nhân tan vỡ của cha mẹ, và nỗi đau của chính mình do những người đàn ông gây nên.
Một mùa đông ở Stockholm hướng đến đề tài người trí thức - nghệ sĩ, nằm trong chủ đề mà gần đây, các nhà văn đoạt giải Nobel rất quan tâm. Tiêu biểu như John Maxwell Coetzee, nhà văn Nam Phi, đoạt giải Nobel 2003 với tiểu thuyết Ruồng bỏ – Disgrace (viết về bi kịch của giáo sư David ở trường Đại học Cape town), nữ văn sĩ người Áo Elfried Jelinek, đoạt giải Nobel 2004, với tiểu thuyết “Cô giáo dương cầm (The Piano Teacher). 

Một mùa đông ở Stockholm
không lôi cuốn người đọc bởi cốt truyện hấp dẫn hay những tình tiết gay cấn, mà chính là ở phương thức trần thuật, ở cách lý giải bi kịch tình yêu. Theo thiên hướng của câu chuyện, tác phẩm rất dễ rơi vào mô tả những cuộc làm tình triền miên, hay luận giải về những ám ảnh của ham muốn tính dục như một số  tiểu thuyết Châu Âu hiện nay (ngoại tình, ly hôn, sự cám dỗ tính dục và sự bất lực tính dục... đó là những chủ đề phổ biến của tiểu thuyết hậu hiện đại). Nhà văn Agneta đã tránh được điều đó, bằng cách, hướng nhân vật vào những “vũng xoáy” của ký ức - tâm trạng, và thông qua đó để thể hiện bi kịch tình yêu của người phụ nữ trong xã hội hậu hiện đại.
* Một mùa đông ở Stockholm và kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.
Tôi gọi tính chất, vì xét về nguyên tắc thể loại, đây không phải là một cuốn tiểu thuyết tự truyện (roman de l’autobiographie). Tự truyện phải được kể ở ngôi thứ nhất, câu chuyện được kể phải là của chính nhân vật xưng tôi đã “nếm trải”. Và sự “nếm trải” của cái tôi tự thuật đó, phải trở thành trung tâm của việc tổ chức trần thuật. Như vậy, cái tôi tự thuật trong thể loại tự truyện hàm chứa nhiều vai: người tự thuật đồng thời là người trần thuật, người kể chuyện (narrateur), và đó cũng chính là tác giả (auteur) kể lại câu chuyện của chính mình. 

Tiểu thuyết hiện nay, xuất hiện một số hiện tượng “đánh tráo” chủ thể trần thuật, nghĩa là vẫn giữ được đặc tính tự thuật, nhưng không sử dụng ngôi thứ nhất xưng tôi, mà dồn vai trần thuật này cho ngôi kể thứ ba. Tác giả vẫn giữ được khoảng cách giữa nhân vật và người kể chuyện, nhưng vẫn có thể bộc lộ một cách tận cùng những gì mà cá nhân mình “nếm trải”, những gì thuộc về thầm kín, riêng tư. Thủ pháp - “đánh tráo” này sẽ giúp tác giả ẩn giấu được cái tôi tự thuật. Cái tôi đó không cần phô bày trực diện, không cần “lột mặt nạ” như trong thể loại tiểu thuyết tự thuật, hay thể loại ký. Kiểu trần thuật này tạo ra một đặc tính lưỡng phân rất thú vị, mà lý thuyết trần thuật học rất khó nắm bắt để phân định chức năng trần thuật cũng như quan điểm trần thuật của tác giả. Có thể tìm thấy đặc điểm này trong tiểu thuyết Ruồng bỏ - một tác phẩm nổi tiếng của Coetzee, viết về bi kịch người trí thức trong xã hội hậu hiện đại Nam Phi.

Một mùa đông ở Stockholm
mang những đặc tính nói trên. Câu chuyện được kể ở ngôi ba, nhưng toàn bộ trung tâm trần thuật lại được tổ chức thông qua một nhân vật duy nhất: người đàn bà không tên trong tác phẩm. Tất cả những sự kiện, tình tiết nhân vật trong câu chuyện đều được kể qua ký ức tâm trạng của người đàn bà không tên này. Giọng điệu trần thuật mang tính chất hồi nhớ, tự thuật, rất rõ.
Trên một tờ báo điện tử tiếng Pháp, nhà văn Agneta nói rằng: “J’écris pour comprendre et ou peut – être pour me consoler” (Tôi viết là để hiểu và có thể để chia sẻ”. Tác giả đã thể hiện quan điểm đó một cách trọn vẹn qua hình tượng nhân vật trung tâm. Toàn bộ tác phẩm là một dòng ký ức tâm trạng dai dẳng (vivace), dằn vặt triền miên của nhân vật nữ không tên, mà lẽ ra phải xưng tôi. Nhiều đoạn tự thuật từ bên trong, và đôi lúc nó bật ra như một phản xạ, không thể kìm nén của một người đã nếm trải sự kiện, nhất là những trang viết về giới tính phụ nữ, về nỗi đau của đàn bà: - “Làm một người đàn bà: Vẻ nữ tính mới bắt đầu phát triển... cặp vú bắt đầu thây lẩy, máu rỉ ra trong quần lót, tất cả những thứ mà chị chịu bó tay, không cách gì đối phó... (tr.63); Ham muốn có con: chị thấy ham muốn đó thôi thúc mãnh liệt ghê gớm, một mãnh lực nguyên thuỷ. Không gì làm cho chị hiểu thấm thía đến vậy, rằng, mình là đàn bà (tr.34); Phá thai: bằng muối ăn, đó là một sự thử thách kéo dài hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ... Trong cơn tuyệt vọng, cõi lòng tan nát và kiệt sức, chị đã viết thư cho cha” (tr.59).

Cảm giác “nếm trải” giới tính này chỉ có thể trần thuật từ bên trong, từ chính sự trải nghiệm nỗi đau của nhân vật, mà tác giả đã chuyển hoá trực tiếp vào người trần thuật, không cần phải mượn lời hoặc sắm vai nhân vật.
Xét về đặc điểm trần thuật, nhân vật - “chị”- ngôi 3, thực ra là nhân vật “tôi”- ngôi 1. Và nếu chúng ta thay đổi ngôi trần thuật từ (3) sang (1), thì điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật vẫn không có gì thay đổi. Bởi vì, tất cả thế giới nghệ thuật trong “Một mùa đông ở Stockholm” đều đặt dưới cái nhìn, sự đánh giá, phán xét trực tiếp của nhân vật người đàn bà không tên, tức nhân vật chị, chứ không hề bị chi phối, dù là một khe hở nào của người kể chuyện toàn tri. Chúng ta chọn ngẫu nhiên, bất kỳ một đoạn văn nào trong tác phẩm, và hãy hoán đổi ngôi trần thuật từ (3) sang (1), chúng ta nhận thấy: điểm nhìn và giọng điệu trần thuật vẫn giữ nguyên, không hề bị biến chuyển về sắc thái trần thuật và nội dung được trần thuật.

Sau đây là đoạn văn tôi đã hoán đổi ngôi trần thuật. Đoạn hồi ức về cảnh làm tình trong căn phòng mùa đông ở Stockholm , người đàn không tên, gặp lại người tình sau 11 năm: “... Tôi tìm cách vùng ra... Anh giữ tôi lại trong cánh tay của mình. Thế rồi, vòng tay anh nới lỏng. Tôi dõi theo ánh mắt của anh. Nó trần trụi. Đôi môi dịu dàng khi anh ôm hôn tôi.  Anh bế tôi ra giường. Anh thì thầm với tôi về những hành trình mà chúng tôi sẽ đi cùng nhau... Anh buông tôi ra, nằm úp bụng, anh khóc. Có lẽ anh không khóc đâu. Đó chỉ là một tiếng nức nở không có nước mắt. Một tiếng nấc. Sau đấy, chúng tôi sẽ không còn gì để nói với nhau. Bên ngoài trời tối đen. Tôi nghe thấy tiếng anh gọi taxi từ bên phòng bên. Tôi không đứng lên. Anh không quay trở lại phòng. Sau một lúc lâu, tôi nghe thấy tiếng căn hộ khép lại. Vĩnh biệt (tr.218).

Kiểu trần thuật như trên, thống ngự toàn văn bản. Chủ thể trần thuật luôn cất lên giọng điệu tự thuật, hướng nội, với lời thì thầm, luyến láy như một điệp khúc ám ảnh về người tình, về nỗi đau của một người đàn bà. Nhân vật người đàn bà không tên, mà tôi đã thử hoán đổi ở trên, chính là người tự thuật, và nó hiện diện đầy đủ đặc tính của kiểu nhân vật trung tâm trong thể loại tự truyện. Đặc tính này, giúp tác giả chuyển tải một cách tối ưu nỗi đau từng nếm trải, những ước muốn thầm kín, riêng tư của chính mình.
Tôi có cảm giác cuốn tiểu thuyết mang hơi hướng tự truyện, rất gần với “L’amant” (Người tình) của Maguerite Duras. Nếu có một sự so sánh giữa hai tác phẩm này, chắc chắn người đọc sẽ tìm được những điểm tương đồng thú vị?

Tại cuộc gặp gỡ giữa đoàn nhà văn Thụy Điển với Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế (29-10-2007), chúng tôi đã đặt ra câu hỏi trên cho nhà văn Angeta. Tôi rất sợ bà né tránh trước câu hỏi này, vì tự truyện là một vấn đề secret, rất tế nhị. Nhưng thật bất ngờ, bà đã trả lời một cách rất thành thực và nhiệt tình:
“Câu chuyện về người đàn bà trong tác phẩm, trước hết là câu chuyên về tôi, nhưng trên hết là không chỉ của riêng tôi. Tôi muốn xác định một tâm thế của chính mình, của một người phụ nữ trong xã hội. Chúng ta là ai? Chúng ta hiện diện với tư cách gì? Chúng ta khác đàn ông như thế nào? Tôi cũng đã nói nhiều về người mẹ, tôi rất tiếc là bài tham luận của bạn đã bỏ quên hình ảnh này. Bà ta cũng khá sinh động đấy chứ, bạn không thấy vậy sao? Người mẹ đó chính là mẹ của tôi, tôi đã từng oán hận bà, vì bà đã bỏ rơi cha tôi khi ông đang trong tình trạng bệnh tật. Nhưng bà có lý, vì trước đó, ông đã đi theo một người đàn bà khác”.

Những phân tích trên của tôi không nhằm hướng đến tường minh chuyện đời tư, thầm kín của tác giả. Đây không phải là mục đích của bài viết này. Vấn đề mà tôi muốn luận giải là: kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật là một hiện tượng mới mẻ của tiểu thuyết Châu Âu hiện nay. Một mùa đông ở Stokholm của Agneta là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng chuyển biến này của tiểu thuyết hậu hiện đại.
Nếu không nhận ra thủ pháp ngầm ẩn này, chúng ta không thể khai mở những thông điệp đích thực của tác phẩm. Và vì vậy, khi vận dụng lý thuyết tự sự về người trần thuật, điểm nhìn trần thuật của G.Genette và cấu trúc truyện kể của T.Todorov vào việc nghiên cứu những hiện tượng này, chúng ta sẽ nhận ra rằng, lý thuyết đã ổn định của hai nhà tự sự học nổi tiếng này, đã không còn hàm chứa được đặc tính trần thuật của một số tiểu thuyết hiện nay.  

* Một mùa đông ở Stockholm
được thể hiện dưới một phong cách trữ tình - triết luận (lyrique - philosophique). Tính chất vừa lãng mạn, huyền ảo, vừa triết lý – trí tuệ này, đã tạo cho tác phẩm một sức lôi cuốn đặc biệt. 
 Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách tiểu thuyết hậu hiện đại. Agneta đã ảnh hưởng phong cách nghệ thuật của những nhà tiểu thuyết nổi tiếng như M.Duras với thủ pháp gián ghép điện ảnh, M.Kundera với phép giản lược tối thiểu, J.M.Coetzee với thủ pháp tượng trưng - ám dụ; E.Jelinẹ qua thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm. Nhưng trên hết, bút pháp trữ tình - triết luận, gắn với những suy tư về sự tồn tại của bản thể con người, chính là phong cách nghệ thuật đặc sắc của Agneta trong Một mùa đông ở Stockholm. Đó là những vấn đề lý thú, chúng tôi sẽ bàn kỹ hơn trong một công trình nghiên cứu khác.
Một mùa đông ở Stockhlm là một cuốn tiểu thuyết độc đáo, tiềm ẩn nhiều ý tưởng sâu xa về những đối cực của giá trị con người (Hoan lạc và thống khổ, chân thực và giả dối, hy vọng và tuyệt vọng, tồn tại và hư vô). Con người - với tất cả ý nghĩa của nó, sẽ được tìm thấy trong tác phẩm này.
    Lối viết trí tuệ của Agneta, ngay từ trang đầu, đã qui chiếu đối tượng tiếp nhận, nghĩa là, nó loại ra cách đọc dễ dãi. Bằng những thủ pháp ngầm ẩn, Agneta đã tạo sự thách đố trong việc nắm bắt chiều sâu tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm. Một mùa đông ở Stockholm vừa mới ra mắt bạn đọc ở Việt , và tôi tin chắc rằng, cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, thú vị này, sẽ nằm trong “tầm ngắm” của giới phê bình.  
                                                                 T.H.S

(nguồn: TCSH số 226 - 12 - 2007)

 


 
----------
*Aneta Pleijel,
Một mùa đông ở Stockholm , Nxb Văn học, 2007. Bản dịch của Hoàng Cương, chuyển dịch từ bản tiếng Pháp Un hiver à Stockholm, Nxb Denoel, Paris, 2000. Các trích dẫn nằm trong bản dịch này.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.