Một số biến đổi của Ca Huế trong thế kỷ XX qua câu chuyện về bài 'Tương tư khúc'

09:31 02/10/2018

PHAN THUẬN THẢO

Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…

Tranh Lê Minh Phong

Đã nhiều thập kỷ nay, bài Tương tư khúc với lời ca buồn bã, giai điệu bi thương đã làm rung động con tim của biết bao người hâm mộ bộ môn nghệ thuật Ca Huế - một thể loại âm nhạc thính phòng đặc sắc phát sinh và phát triển tại Cố đô Huế. Trong số những bài bản Ca Huế, Tương tư khúc là một bài bản đặc biệt. Chính vì sự đặc biệt đó mà bài viết này đề cập đến nó, từ đó có thể mở ra những nhận thức chung về nghệ thuật Ca Huế trong giai đoạn thế kỷ XX.

1. Về tác giả và thời điểm ra đời

Trong khi tất cả các bài bản của Ca Huế cũng như của nhiều thể loại âm nhạc cổ truyền khác không có tác giả và không rõ thời điểm ra đời thì Tương tư khúc lại là một bài bản hiếm hoi có được những thông tin này. Tác giả Văn Lang trong sách Ca Huế và Ca kịch Huế đã viết: “Đây [Tương tư khúc - PTT] là một bài mới - có thể là duy nhất - được đặt ra trong thế kỷ 20 này. Theo lời ông Mộng Ứng, một nhạc công lão thành cho biết bài ca do nhạc sĩ Lý Vũ, người ở Thừa Thiên, sáng tác vào khoảng 1935 - 1940. Có người lại cho là Lý Hiền sáng tác. Nhưng ông Nguyễn Kế, nhạc công hiện ở Huế, thì khẳng định bài ca do ông Trợ Bát (tức Ưng Bát), rể bà An Nhơn, đặt ra có sự cộng tác của ông Lý Vũ. Theo chúng tôi, sự phát hiện của ông Nguyễn Kế là đáng tin cậy nhất” 1.

Từ năm 1996, khi được học và tiếp xúc với các nghệ nhân lão thành về Ca Huế như các ông Nguyễn Kế (1919 - 2002), Trần Kích (1921 - 2010), Minh Mẫn (1925 - 2018), tôi đã được nghe họ kể về việc các cụ Bửu Bát 2, Lý Vũ 3, Hòa thượng Thích Thiện Trí (1907 - 2000) 4 trụ trì chùa Hiếu Quang (ở 141, Điện Biên Phủ, Trường An, Huế)… thường gặp mặt và “chơi” Ca Huế với nhau. Trong hoàn cảnh đó, bài Tương tư khúc đã được sáng tác vào khoảng năm 1937. Trong những giờ học hòa đàn, hòa ca với nghệ nhân Nguyễn Kế, tôi được thầy cho biết ông Bửu Bát chính là người đã sáng tác ra bản Tương tư khúc. Danh ca Minh Mẫn - thầy dạy Ca Huế của tôi - kể rằng bà đã được chính tác giả tập cho ca bài này ở chùa Hiếu Quang. Thêm vào đó, tập ghi lời Ca Huế do ông ngoại tôi là Nguyễn Hữu Mai 5 truyền lại cũng ghi tên Bửu Bát là tác giả của bài ca Tương tư khúc “Quạnh quẽ màn loan…”.

Như thế, bài Tương tư khúc ra đời trong giai đoạn muộn của Ca Huế, khoảng gần giữa thế kỷ XX. Có thể xem đây là một sáng tác mới của các nghệ sĩ Ca Huế, bổ sung thêm bài bản cho bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc này của vùng đất Cố đô.

2. Về thang âm - điệu thức

Bài Tương tư khúc có hệ thống thang âm - điệu thức khác với tất cả các bài bản Ca Huế và dân ca Huế (trừ bài Lý Năm canh). Chúng ta đã biết rằng Ca Huế sử dụng hệ thống thang âm cơ bản gồm 5 âm như sau:
 

Từ thang 5 âm cơ bản này, người ta có thể có thêm âm mi (y) (mi bình, không phải mi giáng), âm sib (phàn) với những quy luật tiến hành giai điệu của chúng. Cho nên, không phải tất cả các bài bản Ca Huế đều có thang 5 âm như trên mà đó chỉ là thang âm cơ bản được sử dụng phổ biến mà thôi. Với thang âm này, người ta sử dụng các kỹ thuật rung, vỗ, nhấn… để tạo nên các loại hơi khách, nam, dựng…, thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau của con người. Về vấn đề hơi nhạc trong Ca Huế, đã có các tác giả khác bàn đến trong những công trình trước đây, chúng tôi xin không lạm bàn ở đây.

Xét về thang âm, bài Tương tư khúc sử dụng một hệ thống khác:
 

Điều thấy rõ ở đây là âm mib đã hoàn toàn thay thế âm re thường gặp trong hệ thống thang âm Ca Huế và dân ca Huế. Âm mib tạo ra một quãng 3 thứ với âm thấp hơn liền kề và tạo nên quãng 2 trưởng với âm cao hơn liền kề 6.
 

Sự xuất hiện của âm mib thay cho âm re đã tạo cho giai điệu của Tương tư khúc một tính chất riêng, khác hẳn với âm điệu đặc trưng của Ca Huế chuyên sử dụng thang 5 âm cơ bản do - re - fa - sol - la.


Mô hình giai điệu này xuất hiện khá nhiều trong bài Tương tư khúc, tạo cho bài bản này một đường nét giai điệu riêng so với các bài bản Ca Huế khác.

Đáng lưu ý, trong bài bản này có cả nốt la (cống) và sib (phàn), khiến cho thang âm của bài bản không còn là 5 âm mà đã là 6 âm. Tuy vậy, 2 nốt này không đi liền với nhau, lúc có âm này thì vắng âm kia và ngược lại.

Trên cơ sở thang âm đó, giai điệu bài nhạc được tiến hành trên trục âm tựa hò-xang-liu. Khi diễn tấu bài bản này, người đàn rung ở các nốt fa (xang), sib (phàn) và do (liu), vỗ ở nốt sol (xê), còn người ca thì rung ở các nốt fa (xang). Sib (phàn). Với cách xử lý như vậy, Tương tư khúc nghe buồn bã, ai oán tương tự như hơi Ai, hơi Oán của nhạc Tài tử - Cải lương Nam Bộ7 bởi chúng có cùng thang âm và rung, vỗ ở những vị trí giống nhau.  


Lý giải về sự giống nhau này, có thể thấy rằng thời gian mà bài Tương tư khúc ra đời là lúc mà nghệ thuật Cải lương phát triển rực rỡ và ảnh hưởng đến cả Trung bộ, Bắc bộ, trong đó có Huế. Những gánh hát Cải lương thường xuyên lưu diễn khắp nơi đã đưa âm nhạc của nó đến với các nghệ sĩ Huế. Chính vì thế, họ đã cho ra đời một bài bản Ca Huế mới chịu ảnh hưởng của nhạc Cải lương Nam bộ. Tuy vậy, các nghệ sĩ Huế vẫn diễn tấu bài bản này với đậm đà chất Huế, bởi nó vẫn mang âm hưởng Huế, phân biệt với nhạc Tài tử - Cải lương Nam bộ.

3. Về nhịp

Khái niệm nhịp có một số cách hiểu khác nhau trong nhạc cổ truyền Việt Nam. Bài viết này sử dụng một trong những nghĩa của từ đó. Trong nhạc cổ truyền Huế, khái niệm này đã được một người Pháp là ông Louis Crochou diễn giải như sau: “Không có đủ từ ngữ để diễn đạt, chúng ta tạm gọi “nhịp” là khoảng cách giữa hai tiếng [sinh] và “nhịp điệu” để chỉ từng nhịp được ngắt bằng một “tiếng sinh” 8. Trong quá trình học và thực hành Ca Huế, tôi hiểu rằng mỗi lúc tiếng sanh (hoặc sinh) gõ xuống thì tính là một nhịp. Nếu như hiểu nhịp là “khoảng cách giữa hai tiếng sinh” thì nó tương đương với khái niệm “measure” trong tiếng Anh, tiếng Pháp, nghĩa là “ô nhịp”. Hai cách hiểu này thực ra không khác nhau về ý nghĩa thực tế và tôi sẽ sử dụng nó trong bài viết này.

Hiện nay, bài Tương tư khúc có một số bản khác nhau:

(1) Bản thông dụng nhất hiện nay là bản có 27 nhịp, có khi được ghi thành 29 nhịp do lặp lại 2 nhịp kết bài (xem Phụ lục 1 dưới đây).  


(2) Bản của các nghệ nhân Minh Mẫn, Nguyễn Kế trực tiếp truyền cho tôi có 30 nhịp (xem Phụ lục 2 dưới đây).  


(3) Bản in trong Giáo trình Đàn - Ca Huế 9 có 32 nhịp (nếu tính thêm  nhịp lấy đà thì là 33 nhịp) (xem Phụ lục 3 dưới đây).   


Tại sao lại có sự khác nhau như thế?

So sánh bản (2) và bản (3), có thể thấy sở dĩ bản (3) có thêm 2 nhịp là vì hai nhịp cuối được diễn tấu lặp lại để kết bài. Như vậy, hai bản này chỉ là một và chúng ta không nên tính nhịp của phần lặp lại để kết bài, cho nên bài này chỉ có 30 nhịp mà thôi. Bản này được các nghệ nhân phái Ca Huế thính phòng như Nguyễn Kế, Trần Kích, Minh Mẫn, Diệu Liên, Trần Thảo, Lệ Hoa, Nguyễn Đình Vân... diễn tấu.

Trong khi đó, bản (1) có 27 nhịp thường do các nghệ sĩ phái Ca Kịch Huế diễn tấu. Sở dĩ nó chỉ còn 27 nhịp là vì khi bài Tương tư khúc, cũng như các bài bản Ca Huế khác, từ một bài bản thính phòng được đưa lên sân khấu Ca kịch thì có sự thay đổi về tốc độ, tiết tấu, đặc biệt là cấu trúc bài bản. NSND Ngọc Bình, Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế đã viết: “... các bài bản Ca Huế khi sử dụng trong ca kịch Huế, nhằm đảm bảo phục vụ cho tình huống, tâm trạng và tính kịch của từng hoàn cảnh, nhân vật cũng như tính tiết tấu của xung đột kịch, thì người chuyển thể có thể phá vỡ cấu trúc chung mang tính trọn vẹn của từng bài bản, nghĩa là không sử dụng toàn bài, mà chỉ đưa vào nhân vật từng đoạn của bài hát nhằm phù hợp với tình huống và tâm trạng của nhân vật lúc đó, vừa phù hợp với tiết tấu, đồng thời rút ngắn được thời lượng của bài ca, và có thể từ một đoạn của bài hát này chuyển qua một đoạn của bài hát khác, vừa phong phú về giai điệu vừa chuyển đổi tâm trạng của nhân vật” 10. Như thế, bản Tương tư khúc 27 nhịp là sự rút ngắn từ bản 30 nhịp để phù hợp với tính kịch trong sân khấu Ca kịch Huế. Thực tế hiện nay, ở Huế vẫn tồn tại 2 bản Tương tư khúc khác nhau, trong đó bản 27 nhịp được diễn tấu thường xuyên hơn. Phần lớn các nghệ sĩ trẻ và trung niên, nhất là các nghệ sĩ phái Ca Kịch, không biết đến bản Tương tư khúc 30 nhịp nên bản này có thể sẽ bị lãng quên trong vài mươi năm tới.

4. Từ bài Tương tư khúc, bàn về một vài biến đổi của Ca Huế trong thế kỷ XX

Dù đây chỉ là câu chuyện về một bài bản, nhưng nó phần nào nói lên tình hình của nghệ thuật Ca Huế giai đoạn thế kỷ XX. Người Huế mặc dù được xem là có tính cách bảo thủ, nhưng các nghệ sĩ Huế cũng đã mở lòng giao lưu với bên ngoài và chịu ảnh hưởng của âm nhạc Nam bộ khi sáng tác bài Tương tư khúc trong Ca Huế. Bài bản này nhanh chóng trở nên phổ biến và được người Huế yêu thích bởi sự buồn bã da diết của nó phù hợp với tâm hồn đa sầu đa cảm của cư dân vùng đất Cố đô.

Như thế, từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng âm nhạc Huế ảnh hưởng khá sâu đậm đối với nhạc lễ và nhạc Tài tử - Cải lương Nam bộ. Tuy vậy, chúng ta cũng cần nhìn nhận sự ảnh hưởng ngược lại của nhạc Cải lương Nam bộ đối với âm nhạc Huế, điển hình là bài Tương tư khúc của Huế được sáng tác dựa trên âm hưởng của nhạc Cải lương miền Nam.

Một bước chuyển biến của nghệ thuật Ca Huế trong thế kỷ XX là việc nó được đưa vào sân khấu Ca kịch Huế. Để phù hợp với tính kịch của sân khấu, các bài bản Ca Huế đã biến đổi. Chúng đã có sự thay đổi về tốc độ, giai điệu, cấu trúc bài bản... Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX trở lại đây, vì một số lý do, cách diễn tấu của sân khấu Ca kịch đã được sử dụng trong Ca Huế thính phòng. Những biến đổi của Ca Huế ở thế kỷ XX thể hiện qua bài Tương tư khúc đặt ra một số vấn đề đáng suy nghĩ: làm thế nào để giữ phong cách riêng của từng thể loại âm nhạc cổ truyền, đặc biệt là Ca Huế - một bộ môn nghệ thuật âm nhạc đặc sắc đã được công nhận là di sản phi vật thể quốc gia, cũng như phong cách riêng của âm nhạc Huế nói chung. Đây phải chăng là vấn đề cần được quan tâm thích đáng để giữ gìn những đặc trưng âm nhạc của vùng đất Cố đô từng nổi tiếng với truyền thống văn hóa độc đáo và đặc sắc?

P.T.T 
(TCSH355/09-2018)

-----------------
1. Văn Lang, Ca Huế và Ca kịch Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.19-20.
2. Là người trong hoàng tộc triều Nguyễn.
3. Hòa thượng Thích Thiện Trí trụ trì chùa Hiếu Quang là người am hiểu về thơ văn, âm nhạc. Hòa  thượng từng sáng tác lời Ca Huế và làm thơ với bút danh Dạ sĩ.
4. Ông Nguyễn Hữu Mai (1911 - 1992) là quan “Ngũ đẳng Thị vệ”, chuyên hầu cận vua Bảo Đại. Ông  từng sáng tác lời Ca Huế với bút danh là Thiếu Phương.
5. Trong bài viết này, chúng tôi tạm mượn các thuật ngữ của lý thuyết âm nhạc phương Tây để người đọc  dễ hình dung, song trên thực tế, các thuật ngữ này chỉ có ý nghĩa tương tự chứ không hoàn toàn giống với ý nghĩa được dùng trong âm nhạc phương Tây. Chẳng hạn, các cao độ, các quãng âm của Ca Huế chỉ tương đương chứ không hoàn toàn giống với các cao độ, quãng âm trong âm nhạc phương Tây.
6. Tác giả Kiều Tấn cho rằng trong âm nhạc Tài tử Nam bộ, cả 2 loại bài bản Ai và Oán đều có dùng  dạng thang âm - điệu thức Hò - y - xang - xê - công - phàn - liu và xếp chúng vào cùng một hệ thống điệu Nam. (Kiều Tấn, Tìm hiểu điệu thức trong âm nhạc Tài tử Nam bộ, Thang âm Điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, 1993, tr. 395-396).
7. Tác giả Kiều Tấn cho rằng trong âm nhạc Tài tử Nam bộ, cả 2 loại bài bản Ai và Oán đều có dùng  dạng thang âm - điệu thức Hò - y - xang - xê - công - phàn - liu và xếp chúng vào cùng một hệ thống điệu Nam. (Kiều Tấn, Tìm hiểu điệu thức trong âm nhạc Tài tử Nam bộ, Thang âm Điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, 1993, tr. 395-396).
8. Hoàng Yến, Âm nhạc Huế: đờn nguyệt và đờn tranh, Những người bạn Cố đô Huế, bản dịch của  Đặng Như Tùng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998, tr.111.
9. Nguyễn Việt Đức (Chủ biên), Lâm Bảo Dần, Giáo trình Đàn - Ca Huế, Nxb. Đại học Huế, Huế,  2015, tr. 165-166.
10. Nguyễn Ngọc Bình, Ca Huế trong lĩnh vực sân khấu ca kịch Huế, Hội thảo Đề tài Khoa học cấp Bộ Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca Huế, Học viện Âm nhạc Huế, 2013, tr.36.     


---------------------
Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Việt Đức (Chủ biên), Lâm Bảo Dần, Giáo trình Đàn - Ca Huế, Nxb. Đại học Huế, Huế, 2015.
2. Văn Lang, Ca Huế và Ca Kịch Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993.
3. Nhiều tác giả, Thang âm Điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật tại Tp Hồ Chí Minh xuất bản, Tp. Hồ Chí Minh, 1993.
3. Nhiều tác giả, Tài liệu giảng dạy Ca Huế tại Khoa Âm nhạc Truyền thống và Khoa Âm nhạc Di sản Học viện Âm nhạc Huế, lưu hành nội bộ.
4. Nhiều tác giả, Âm nhạc cổ truyền Quảng Trị, Viện Nghiên cứu Âm nhạc và Sở Văn hóa Thông tin - Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị xuất bản, Quảng Trị, 1997.
5. Nhiều tác giả, Hội thảo Đề tài Khoa học cấp Bộ Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Huế, 2013.
6. Bùi Ngọc Phúc (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng hợp kết quả NCKH Đề tài cấp Bộ Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Huế, 2014.
7. Nguyễn Đình Sáng, Nguyễn Thị Kim Liên, Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2012.
8. Hoàng Yến, Âm nhạc Huế: đờn nguyệt và đờn tranh, Những người bạn Cố đô Huế, bản dịch của Đặng Như Tùng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998, tr.111.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang