Một nhà họ Hồ đậu ba Trạng nguyên

14:16 18/11/2008
NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

Hồ Tông Thốc sinh tại Kẻ Cuồi năm Giáp Tý (1324) ông là cháu xa đời (viễn tôn) của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật. Hồ Hưng Dật quê Triết Giang, Trung Quốc, được phái sang làm Tri châu của Châu Diễn thời Bắc thuộc, có lỵ sở đóng ở làng Quỳ Lăng, cách Kẻ Cuồi một cánh đồng. Tại nhà thờ đại tôn họ Hồ ở Kẻ Cuồi còn lưu lại đôi câu đối:
Triết Giang thử địa Ngô tiên thế
Hoan Diễn do tồn ức vạn niên
(Triết Giang đất ấy quê tiên tổ
Hoan Diễn quê này tới vạn năm)
Thuở nhỏ, Hồ Tông Thốc nổi tiếng là con nhà nghèo nhưng ham học mà học giỏi, được nhân dân xem là bậc thần đồng. Truyện kể rằng, có một lần vào dịp Tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng), Hồ Tông Thốc được mời dự một cuộc xướng hoạ thơ phú với khách văn chương. Ông đã ứng tác hằng trăm bài thơ hoạ làm mọi người thán phục, từ đó tên tuổi ông được truyền tụng khắp nơi.

Năm 17 tuổi (1341) Hồ Tông Thốc dự thi Đình và đỗ Trạng nguyên. Sau khi đỗ đầu khoa thi, tuy tuổi còn trẻ nhưng Hồ Tông Thốc được vua Trần Hiếu Tông cho giữ chức Trung thư lệnh. Năm 1372, Hồ Tông Thốc được giao chức Hàm lâm viện đại học sỹ. Tám năm sau, năm 1386, ông được thăng Hàn lâm viện kiêm Thẩm hình viện sứ.
Là người giỏi thơ văn, có tài ứng đối linh hoạt ông được vua nhà Trần cử đi sứ ở Trung Quốc nhiều lần và lần nào ông cũng làm tốt phận sự của mình.
Năm 1400, Hồ Tông Thốc cáo quan về quê và mất tại đó năm 1404.
Hồ Tông Thốc là một vị quan thanh liêm đồng thời là một nhà thơ, nhà sử học, nhà văn hoá để lại nhiều trước tác có giá trị. Ông đã viết các tập sách: Phụ học chỉ nam; Việt thế chí; Thảo nhân hiệu tần thi tập; Việt sử cương mục.

Ông là người đầu tiên ghi tên nước Việt vào bộ lịch sử nước nhà do ông soạn thảo. Trong bài tựa “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sỹ Liên viết: “Hồ Tông Thốc đã biên soạn Việt sử cương mục, chép việc thận trọng mà có khuôn phép, bàn việc thiết đáng mà không thừa”. Nhà sử học Bùi Dương Lịch (thế kỷ 19) cũng có nhận xét về ông: “Hồ Tông Thốc đỗ sớm mà có tài”.

Đối với dòng họ Hồ ở Nghệ An, Hồ Tông Thốc là người mở đầu cho nền khoa bảng của một thế gia vọng tộc, có truyền thống hiếu học, học giỏi, nhiều người đỗ đạt. Cả chi họ Hồ ở quê gốc Kẻ Cuồi, Tam Thọ (Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An), cả chi họ Hồ ở Thổ Đôi Trang (Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An). Riêng đời Trần, họ Hồ ở Kẻ Cuồi có 3 Trạng nguyên. Con trai Hồ Tông Thốc là Hồ Tông Đốn và cháu ruột là Hồ Tông Thành đều đậu Trạng nguyên. Sang đời Lê, các con, cháu của Hồ Tông Thành là Hồ Đình Trung, Hồ Đình Quế, Hồ Doãn Văn đều đỗ Tiến sỹ. Ngoài ra, họ Hồ ở Kẻ Cuồi còn có 7 người đậu cử nhân, 23 người đậu giám sinh thời Lê và nhiều bậc đậu cử nhân, tú tài triều Nguyễn. Nhắc đến dòng họ Hồ ở Kẻ Cuồi, Yên Thành nhân dân vùng Nghệ-Tĩnh có câu ca:
Một nhà ba trạng nguyên ngồi
Một gương từ mẫu mấy đời soi chung

Một câu chuyện cảm động về Hồ Tông Thốc mà nhân dân trong vùng thường nhắc đến là thuở hàn vi cũng như lúc ra làm quan, gia cảnh họ Hồ nghèo lắm, có lúc không đủ cơm ăn, phải ăn khoai trừ bữa.
Thời Trần, làng Cuồi nằm trên một gò đất cao (gò Tràm) giữa bốn bề là đồng chiêm trũng. Ở đây có giống khoai nước, một thứ cây có củ ăn được, tựa như cây khoai sọ, khoai mùng, nhân dân thường gọi đó là khoai Cuồi. Lá khoai Cuồi to như lá mùng, giữa lá có một chấm nhỏ màu vàng. Củ khoai Cuồi có vỏ màu tím, mọc thành chùm, to từ 2-3 lạng đến 6-7 lạng. Củ khoai Cuồi sống có mủ, đụng vào dễ bị ngứa lăn tăn (họ nhà môn không ngứa cũng tưa tưa) nhưng rửa sạch, bỏ vào nồi, đổ nước vào, đậy kín vung, luộc chín, khoai Cuồi có vị ngọt, màu trắng đục, vừa bùi, vừa dẻo, vừa thơm, có thể ăn thay cơm. Nhiều năm mất mùa, khoai Cuồi là nguồn lương thực chính của nhà nông và nuôi lớn những tú tài, cử nhân, tiến sỹ, trạng nguyên. Bởi thế, nhân dân trong vùng có câu đố vui:
Sớm khoai, trưa khoai, tối khoai,
Khoai ba bữa.
Ông đỗ, cha đỗ, cháu đỗ
đỗ cả nhà.

Ngày nay, trên đất Kẻ Cuồi, Tam Công (Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An) có một trường trung học PTCS mang tên Hồ Tông Thốc. Nhà thờ đại tôn họ Hồ ở Kẻ Cuồi cũng đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử Văn hoá Quốc gia. Hàng năm vào dịp mồng 9 tháng Giêng âm lịch, con cháu họ Hồ từ các nơi cùng khách thập phương về Kẻ Cuồi dự lễ tế tổ họ Hồ để tôn vinh một gia đình, một dòng họ hiếu học, học giỏi đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng nền văn hiến của Việt Nam.
N.Đ.T

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 



-------------
(Bài viết có sử dụng một số tư liệu từ Lịch sử Nghệ-Tĩnh, Lịch sử Yên Thành, Lịch sử Thọ Thành)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANH    

    Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.

  • PHAN NGỌC

    Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.

  • PHAN ĐÌNH DŨNG

    1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN    

    Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

  • Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn

    PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có.                                                                                   (Sainteny)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG     

            (Gởi Hoàng Thị Hạnh)

  • MAURICE BLANCHOT    

    Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...

  • TRẦN NGỌC HIẾU    

    Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

  • THANH NGÂN  

    Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.

  • MAI VĂN HOAN  

    Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

  • PAUL DE MAN  

    Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.

  • YẾN THANH  

    Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.