LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Thân phận con người có được “hiểu thêm” qua lăng kính lịch sử, được hướng dẫn tư duy phán đoán để ứng phó với cuộc sống thường nhật hay những biến thiên của thời đại?
Minh họa: Nhím
Khi bắt tay viết những bộ sử thông diễn về lịch đại thế giới, học giả Will Durant cũng phải do dự và biến nó thành một chương đầy trăn trở của người viết sử. Dĩ nhiên, với những khoa học gia, lịch sử được nắm bắt dù là chủ quan cá nhân hay khách quan nhất cũng chỉ là ống kính được phóng lên từ những tọa độ và cự ly khác nhau của lịch đại.
May mắn thay, quyền năng để lý giải lịch sử, dung truyền lịch sử còn có đường ray dành riêng cho văn chương. Hàng nghìn nhân vật, sự kiện, thời kỳ, bí mật, biến cố lịch sử đã được tạo dựng từ những hư cấu văn học và tất cả đã sống dậy từ những trang viết cạy cục, miệt mài của những nhà văn ký thác hồn mình trong miên man ký ức của nhân loại.
Thứ tinh thần bứt phá từ đám đông có tâm hồn hồi cố ấy được truyền thừa lại cho những thế hệ khác, luôn căng đầy hứng thú với trò chơi của lịch đại. Lịch sử sau cánh cửa này chứa đựng gì, có thật sự hấp dẫn và cần thiết cho chúng ta, những người đang sống trong hiện tại này không.
Hiểu biết quá khứ là sự mong cầu cần thiết, hẳn nhiên bạn không thể yên tâm mặc một chiếc áo, ăn một món mà không biết nguồn gốc, xuất xứ và lỡ đọc truyện ngắn, chạm tới cái tên nhân vật, sự kiện, giai đoạn lịch sử… liệu rằng chúng ta có yên tâm để nhâm nhi những tác phẩm ấy trong một chiều hè nắng trải.
Hồi mơ mộng, tôi nghĩ rằng lịch sử luôn là giấc mơ của sự thật, và trong một giới hạn nào đó, văn chương có quyền năng để khiến giấc mơ của “sự thật” được thả rông trên giấy. Tác phẩm văn học về đề tài lịch sử cơ bản là lý giải lịch sử, tiếp diễn sự kiện quá khứ không cùng đích theo cách của văn chương. Lại nhắc lời học giả Will Durant, “Phần lớn lịch sử là những điều phỏng đoán, phần còn lại là những thành kiến”, đã mở rộng được cho những lối đi hẹp của văn chương vào lịch sử hay những cánh cửa rộng mở của lịch sử cho văn chương, như trường hợp của văn hào Henryk Sienkiewicz, tác giả của tiểu thuyết kinh điển Quo Vadis, một sử gia mê đắm nghề văn.
Và nữa, không có sự sắp đặt cho lịch sử vào những đường vạch sẵn của luận lý và chúng ta đã mất công gán đặt những quy nạp của riêng mình. Nhưng một tác phẩm văn học có thể cho ra những diễn biến, kết thúc khác nhau về một nhân vật, sự kiện lịch sử. Nói theo cách của Tạ Chí Đại Trường là “có những thỏa hợp ở mức độ nào đó để cho ‘bài sử khác’ vẫn là bài sử Việt Nam”. Một “bài sử Việt Nam”, điều mà những thế hệ nhà văn tiền bối như Nguyễn Huy Tưởng, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh… đã dựng nên, đó là giấc mơ của “sự thật” được tôn trọng và đã đứng vững trong dòng văn học sử.
*
Nhìn chung đề tài lịch sử trong văn học xoay quanh những vấn đề còn bỏ ngỏ trong lịch sử dân tộc, nhất là đời sống chính trị của tầng lớp trên. Những chuyện đấu đá nội cung, tranh giành vương vị, bi kịch thân phận nữ nhân trong lịch sử… đã vẽ nên một bức tranh sống động, chân thật của thời đại xa xăm theo cách của riêng mình. Một sự phóng tưởng xuyên thời gian dựa trên những cứ liệu thuyết phục, rằng quá khứ luôn luôn là kho báu cho mỗi bài học của chúng ta.
Những truyện ngắn đậm chất lịch sử của đã vin vào những thủ pháp nghệ thuật, tính tường diễn sâu sắc của ngôn ngữ để “văn chương hóa” lịch sử. Những lối kết cấu linh hoạt, những diễn biến tâm lý phức cảm, nhiều tầng bậc không gian, thời gian truyện, những chiến lược tự sự, lối kể chuyện mang tính chất dòng ý thức đã thể hiện hiệu quả nhất định. Nghệ thuật khi ấy đã bám theo chân lý của đời sống mà cao hơn nữa là chân lý thâm cùng của vũ trụ để diễn giải lịch sử, bắt lịch sử kể chuyện theo cách của nhà văn. Như thế, vấn đề của văn chương trong những câu chuyện là việc “phẫu thuật” những thể phận của con người, đời sống chính trị qua nhiều triều đại, thời kỳ trong lịch sử Việt Nam với hàng trăm chi tiết tỉ mẩn về sự kiện, nhân vật, ngôn ngữ. Sự thấu thị nghệ thuật của con người, nghệ thuật nhân sinh và bám theo chân lý đời sống đã được lồng ghép, ẩn mình sau những câu chuyện nổi trôi, nhiều biến cố.
*
Thời gian hữu hạn, đem cái trăm năm của con người lên thước đo thời gian thì trăm năm cũng là giây phút; đem lịch sử để đo diễn trình của loài người cũng chỉ là sự tôn trọng ảo tưởng của nhau. Những câu chuyện lấy cốt sử đã khoác thêm/bóc đi nhiều tấm áo đổi màu với biết bao cái lốt ngụy trang đằng sau tấm thân thật của lịch sử dân tộc. Tính trùng diễn được biểu hiện rõ nét như chính lịch sử nhân loại ở những biểu hiện cụ thể. Điều này tương đồng với việc con người phải ngưỡng vọng cao hơn, thoát khỏi những diễm ảnh của quá khứ, phù ảnh của hiện tại và hư ảnh của tương lai. Tất cả chúng làm tan nát những giấc mơ của con người thành từng mảnh, và rồi chúng ta lại bắt đầu cần mẫn thu thập các mảnh vỡ đó và tạo ra giấc mơ khác. Theo cách này, văn chương tiếp tục tồn tại để biến hiện đời sống nhân loại dù đang ở trong trạng thái nào của thời gian.
Huế, 7/2017
L.V.T.G
(SHSDB26/09-2017)
THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.
ĐÔNG LA. (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")
NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.
NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.
LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.
Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.
Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại
ĐINH XUÂN LÂM (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.
NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".
PHONG LÊ (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.
ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.
PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.
LÊ ĐẠT Cầm tên em đi tìm
VŨ NGỌC KHÁNH (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)
LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.
Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...
Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.
TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.