Phủ Tùng Thiện Vương - Ảnh: lieuquanhue
Nguyễn Hàm Ninh - như chúng ta đều biết - là người thôn Trung Thuần, bây giờ thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch. Ông tự là Tĩnh Trai, biệt hiệu là Thuận Chi, đỗ giải nguyên năm 1831 (1). Thời gian giữ một chức quan nhỏ tại Huế, qua môi giới của thơ văn, ông kết giao với Tùng Thiện Công Miên Thẩm. Dần dần, tình bạn giữa hai người trở nên mật thiết. Bài thơ đầu tiên Miên Thẩm viết về ông là vào mùa thu năm 1840, lúc cùng nhau ngồi trong vườn uống rượu, ngâm thơ (2). Năm 1847, Tùng Thiện Công xây dựng vườn Ký Thưởng và Tiêu Viên bên bờ sông Lợi Nông, rồi hai năm sau, đưa mẹ sinh và ba người em gái cùng mẹ về chung ở. Ba người em gái này là Vĩnh Trinh, hiệu Nguyệt Đình, tức Quy Đức công chúa, Trinh Thận, hiệu Mai Am tức Lại Đức công chúa, và Tĩnh Hòa, hiệu Huệ Phố (còn có hiệu nữa là Trường Sơn), tức Thuận Lễ công chúa; cũng như anh ruột, ba chị em đều hay thơ. Là bạn thơ của Miên Thẩm: không lâu, Nguyễn Hàm Ninh cũng trở thành bạn thơ của ba bà chúa trẻ, chưa chồng.
Vốn là một con người vui tính, hay đùa nghịch song rất đa tình, nên mặc dầu lúc này ông đã cáo quan về nhà gần hai năm (3), thỉnh thoảng mới vào thăm Miên Thẩm, nhất là đã có vợ con rồi, nhưng ông vẫn thấy lòng xao xuyến trước con người tài hoa cùng với tuổi xuân hơ hớ của họ. Chúng ta thông cảm cho ông, một con người sống có phần phóng túng, mê rượu, mê cô đầu, ít khi tự ràng buộc vào khuôn phép. Hơn nữa, xã hội năm thê bảy thiếp lúc bấy giờ có cấm đoán gì điều ấy đâu. Từ mối yêu đương thầm lặng của mình, ông viết một bài thơ thăm dò ý tứ. Bài thơ nhan đề là “Vô đề”: Thập nhị châu lan nhẫm tử yên Đào hoa như cẩm thảo như chiên Sơ liên thanh điệm vi kỳ địa Tế Tuyết hàn mai vịnh nhứ thiên Quyên phẩn bôi trung tương tiên tửu Đồng tâm trướng để tiểu du tiên Xuân phong nhất khứ vô tiêu tức Lưu dữ anh kha thoại cựu duyên Tạm dịch: Một dãy lan chờ khói tía tươi (4) Hoa như gấm trải cỏ chăn phơi Rèm thưa chiếu sạch cờ vây nước Tuyết mỏng mai đông tứ vịnh trời Trướng rũ chung lòng thơ thoát tục Chén vui bỏ giận rượu nâng mời Gió xuân đi mãi không hơi dạng Duyên cũ còn anh vẹt nhắc thôi. Bài thơ nói là không đề nhưng rõ ràng là có đề, chỉ không viết rõ ra mà thôi. Nội dung nhẹ nhàng, ý tứ bóng bẩy vừa kín vừa hở, chữ và điển cố dùng rất đắt (5) ướm lòng các bà chúa như vậy thì tuyệt. Đến Cao Bá Quát, một người nổi tiếng khó tính về thơ, cũng phải khen “Cao bộ Trung Đường, phủ thị chư tử” (bài thơ hay như của thời Trung Đường, vượt hẳn các nhà khác). Miên Thẩm cũng chịu là hay. Ông nhận ra ngay là một bài thơ “ve gái” và “ve” chính các em gái mình. Nhưng là một người độ lượng, ông lấy thơ làm chủ yếu, không quan tâm gì đến điều đó. Lời nhận xét của ông thật là chính xác: “Khả dịch Ngọc Khê, Phi Khanh, Đoan Kỷ đẳng, bất năng cập” (có thể sánh ngang với Ngọc Khê, bọn Phi Khanh, Đoan Kỷ không thể theo kịp). Ngọc Khê, Phi Khanh và Đoan Kỷ là những người làm thơ ghẹo các bà công chúa thời trước. Nguyễn Hàm Ninh làm xong, gởi cho Huệ Phố. Một người thơ gởi thơ cho một người thơ xem, hơn nữa, nội dung xa xôi, không định vào một người nào cả, có ai bắt gì được. Nếu Huệ Phố muốn hiểu theo tình ý thì hiểu, không thì thôi. Song hình như Huệ Phố không phải là đối tượng chính của nhà thơ, cái đích của ông là Mai Am. Trong bài thơ ít nhiều có ẩn ý đó (6), Huệ Phố xem rồi thế nào chẳng đưa cho bà chị đọc. Thế là đạt ý muốn. Đối với Vĩnh Trinh, người lớn tuổi hơn cả, một người luôn luôn đặt mình vào phép tắc phong kiến, chắc rằng ông không muốn đụng vào. Còn Mai Am, trong con mắt ông, là con người tài hoa, con người đa cảm hơn cả trong ba chị em, vì vậy cũng là con người đáng yêu nhất (7). Ông biết rất rõ mối tình của mình dầu có được đáp lại bằng một thái độ gì, rốt cuộc cũng chỉ là một mối tình vô vọng. Biết thế nhưng vẫn không thể cưỡng lại lòng mình. Năm 1850, Mai Am tuân theo gia pháp, đi lấy chồng. Nỗi nhớ khiến ông viết bài “Ức mai” (Nhớ mai): Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy Tiểu các thanh hàn độc tọa trì Địch lý quan sơn sầu cựu khúc Thủy biên ly lạc nhận tiền kỳ Hương nam tuyết bắc vô phương tấn Nguyệt địa vân giai hữu mộng ti (tư) Dục bả tân từ viễn tương tặng Mỹ nhân uyển tại thủy chi my Tạm dịch: Đêm qua, đến, gió bắc rì rào Ngồi một mình lâu, gác lạnh sao Tiếng sáo cách xa buồn khúc cũ Bờ sông rào dậu ấy ngày nào Hương nam tuyết bắc tin không tới Đất nguyệt thềm mây mộng nhớ nhau Muốn gửi bài từ xa đến tặng Thướt tha người ngọc bến hồ xao Lời thơ không phong kín như bài trước. Có một cái gì chua xót bên trong. Nhớ một cành mai nhưng là nhớ một người. Người ấy, ngoài Mai Am, còn là ai khác nữa. Bài thơ đến tay Mai Am. Bà đọc, lòng bồi hồi và xin tác giả cho đặt vào tập thơ của mình (Diệu Liên thi tập). Về sau, những lời gì của ông nói về bà, bà cũng chép vào cả. Điều này, trong bao nhiêu lý do, có lẽ có một lý do thầm kín. Mai Am lấy Thân Trọng Di, tuy là con một ông quan to, không đến nỗi văn dốt võ nát và cũng có lòng yêu nước (8) nhưng không có tài năng gì đáng kể, lại không ham thích thơ phú, do đó giữa hai người chưa thật tâm đầu ý hợp. Cuộc tình duyên vì vậy mà ngầm có ít nhiều bất như ý về phía Mai Am. Đọc thơ văn của bà, hơn một lần, chúng ta thấy thấp thoáng có bóng “một người đi qua”. Đây là những câu từ mang bóng dáng con người đó: … Chào khách tiếng chim ngoài cửa Thoạt nhớ một người những bữa Xoắn xuýt giống tơ vò Cho biết mối tình là ra rứa Chan chứa chan chứa Mòn mỏi mặt trăng hơn nữa … Những câu ca của bà cũng chứa đựng một cái gì in sâu vào lòng như vậy: … Chuông bầu - giục sầu đòi khi Chạnh vì - chạnh vì tình xưa Màn loan bướm ong lửng lơ Ngày dồn thoi én Thu hết xuân về Liễu giăng tơ Nhạn thư vắng đưa Biết ai có trông còn đợi Lòng ta thêm ngại Song giống đa tình Dễ mấy ai đành… Có thể nghĩ rằng bà đã hư cấu hoặc đứng vào tâm sự một người nào đó để viết. Nhưng ở đây, chúng ta gặp những hình ảnh chân thực quá, những tình cảm tha thiết quá, không phải là người trong cuộc khó viết nên nỗi.
Phần nhà thơ họ Nguyễn của chúng ta cũng vậy. Càng đi vào tuổi già, những con sóng ngầm càng vỗ mạnh trong lòng. Ông có một bài ca trù nói lên nỗi nhớ dằng dặc ấy: … Khúc tỳ bà bát ngát giữa giang thiên Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã Trừ tịch chi dạ Thị dạ phi da (9) Giữa vầng soi thấp thoáng mặt hằng nga Còn nhớ khúc kỳ đình năm nọ Gẫm thân thế luống nực cười sự cũ Thôi thì thôi nhắc lại mà chi? … Trong lòng bạch phát hồng nhan Trách con tạo điên đảo đảo điên chi lắm bấy Đôi tay áo rủ bụi đời thay thảy Biết rằng đâu là ân là oán là nợ là duyên Vong tình là tiểu thần tiên Ông tự nhủ: “Đi tìm người tình thì tuổi xuân mình đã hết - đã trải việc đời thì không gì bằng ôm gối ngủ yên” (10) và “vong tình là tiểu thần tiên” nhưng đâu dễ thế. Chẳng qua ông tự dối mình. Người mà ông không thể nào dối được, trước hết là ông anh Miên Thẩm. Miên Thẩm là người đã nhìn thấy tận trái tim của ông. Một lần vào Huế, đến thăm người bạn thơ thân thiết, ông không ở lại chơi lâu như trước. Miên Thẩm ghi lại buổi gặp mặt ngắn ngủi ấy: Thập niên kinh để biệt Dẫn tích trí thư bưu Hữu tửu quân kiêm đáo Vô quan khí ích tù Sóc phong hào ngạn thụ Lạc nhật động hồ lâu Tảo văn sinh xuân thủy Tâm tri bất khẳng lưu Tạm dịch: Mười năm cách biệt kinh đô Bao nhiêu chuyện cũ qua thư đã tường Anh vào, vừa có rượu ngon Không ai quan, chí khí càng hăng sao Bờ cây gió bắc rì rào Nắng chiều rung bóng lầu cao trên hồ Dòng xuân rồi sẽ lên lo Biết không chịu ở chơi lâu đâu mà Miên Thẩm đã nhắc lại “ngọn gió bắc” thổi trên bờ cây, bóng “lầu trên hồ” nơi Mai Am ở, “dòng nước” có bóng người “thướt tha”, những cảnh vật từ bài thơ “nhớ mai” mà ông biết là đang vào vò nát tâm can bạn và cho lòng mình biết bạn không muốn ở lại chơi lâu. Nguyễn Hàm Ninh vội từ giã đất Huế, không phải chỉ để quên mà còn trốn những gì cứ làm đau nhói tâm can. Nhưng trốn làm sao được? Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã, ông muốn những trái tim ông đâu có chịu khép lại. Một mối tình man mác như hơi gió nhưng không thể nào tan. Biết đâu họ đã mang xuống tuyền đài. Điều chắc chắn hơn cả là nó cứ in dấu lên thơ văn của họ và còn lại mãi mãi như vang bóng Huế một thời (11). L.A. (6/4-84) --------------- 1. Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) có hai tập thơ văn: Tĩnh Trai thi văn tập và Được sự ngẫu đề. Ông là một nhà thơ tiến bộ. Ông làm quan đến Án sát tỉnh Khánh Hòa rồi bị cách chức do một sơ suất trong đời sống. Sau đó, được phục chức nhưng sau khi Tự Đức lên ngôi, ông bất bình trước cái chết của Hồng Bảo nên cáo quan về làng. 2. Bài “Thu Viên đồng Thuận Chi đối chước” (vườn thu, cùng Thuận Chi uống rượu. 3. Theo bài thơ “Nguyễn Thuận Chi kiến phong đối ẩm” của Miên Thẩm thì ông cáo quan về năm 1847. 4. Mười hai cây châu lan trồng trước nhà màu tía, chỉ màu vua chúa thương dụng. 5. Bài thơ có một số điển tích rất gợi nhưng cũng rất khó diễn đạt khi dịch thành thơ. Song tiếc rằng một bài giới thiệu không thể cho phép phân tích đầy đủ. 6. Tế tuyết hàn mai: Tuyết mỏng mai non. 7. Về sau, Nguyễn Hàm Ninh có nói: “Ta học thơ với ngài Thương Sơn (tức Miên Thẩm) gần 20 năm, nay đọc thơ của một bà chúa em thì tự biết phận, chẳng những là làm học trò nơi nhà Tùng Vân (tức Miên Thẩm) mà còn phải làm học trò nơi đình Thinh Nguyệt (tức Mai Am) nữa”. Nguyễn Hàm Ninh nói không quá. Mai Am có một số bài thơ không những nổi tiếng lúc bấy giờ mà cho đến nay, vẫn còn có một giá trị nhất định. Chẳng hạn bài Mã Viện hay bài Độc điếu nghĩa dân tử trận văn. 8. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, ông chạy theo nhưng không đuổi kịp, bị ốm giữa rừng, vào trong một bộng cây mà chết. 9. Đêm cuối năm, có phải, không phải? 10. Nguyên văn chữ Hán: Tầm phương tự giác tạm xuân vãn/ Duyệt thế vô như bán chẩn nhàn. 11. Một số tài liệu trong bài này rút từ tập “Đời tài hoa” của Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề và “Tùng Thiện Vương” của Ưng Trình. Trong “Đời tài hoa”, tác giả còn ghi một bài thơ của Huệ phố viết khi sắp đi lấy chồng và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh. Theo chúng tôi, ở đây không phải Huệ Phố nói đến mình mà muốn nói về Mai Am. Để các bạn đọc theo dõi và cũng để giới thiệu một bài thơ của Huệ Phố (Huệ Phố thi tập), chúng tôi trích đăng bài thơ đó: Thực trúc dị mai cưỡng tự khoan Giác vô ngôn xứ lộ nan can Thương tâm đối thị đình tiền nguyệt Bất tác đoàn loan cựu nhật khan Tạm dịch: Trồng trúc dời mai vui gượng gạo Biết không nói được lệ khôn khô Đau lòng trông mảnh trăng sân dọi Chẳng thấy tròn như những buổi xưa. Chúng ta gặp những ý như “dời mai”, chẳng chịu tròn lên (ý của Mai Am: mòn mỏi mặt trăng hơn nữa) có thể làm cơ sở cho nhận định này. Chắc là Huệ Phố đau buồn trước cảnh “ôm cầm thuyền ai” chưa được như ý của chị và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh để nói lên lòng nuối tiếc của mình. Chẳng lẽ nhà thơ có tình ý với cả hai chị em và cả hai chị em đều có tình ý với nhà thơ. Huệ Phố lấy Đặng Huy Cát và là mẹ của Đặng Huy Phổ, một nghĩa sĩ của phong trào Cần Vương. Cuộc tình duyên này không có gì “gượng gạo” về phía bà. Cái ý “nhà cao cửa lớn, vẫn giữ trọn đạo người vợ” (Võ hoành nhàn Nội tắc chi chương) trong câu đối ở mộ bà đã khẳng định điều đó. |
NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.
THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.