Một góc nhìn chiến tranh của Văn Xương

10:35 16/09/2009
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

Nhà văn Văn Xương - Ảnh: vanxuong.quangtri.gov.vn

Văn Xương tên thật là Văn Bốn. Anh chính thức cầm bút chưa đầy chục năm nhưng sức viết khá mạnh, đã cho ra đời 2 tập truyện “Hoa gạo đỏ bên sông” NXB Hội Nhà văn năm 2006 và “Hồn trầm” NXB Lao động năm 2008.

Văn Xương là cựu chiến binh, hiện đang là cán bộ dân sự nhưng có thể nói anh là “Nhà văn quân đội” viết về đề tài chiến tranh, đề tài người lính là chủ yếu. Ký ức về chiến tranh, di hoạ của chiến tranh luôn ám ảnh không nguôi trong anh. Sống trên mảnh đất Quảng Trị một thời máu lửa ác liệt nhất đất nước, có dòng sông Hiền Lương và vĩ tuyến 17 chia đôi Tổ quốc suốt 21 năm, đi đâu cũng bắt gặp những địa danh gắn liền với những chiến công oai hùng, lừng lẫy: đường 9 Khe Sanh, Thành Cổ, Cửa Việt, Gio Linh, Dốc Miếu,... Chiến tranh đã để lại ở đây 72 nghĩa trang, hàng chục ngàn người bị chất độc da cam đang quằn quại về thể xác, và nỗi đau mất mát đến tột cùng. Vẫn còn đó dưới lòng đất vô vàn vật liệu nổ, hàng ngày gây chết chóc cho con người và có thể cả trăm năm sau chưa thể tháo gỡ hết. Bởi vậy cây bút Văn Xương đặt xuống trang giấy là không khí chiến tranh và nỗi đau sau cuộc chiến. Chiến tranh đã được Văn Xương biểu hiện ở đỉnh cao của sự gây cấn, quyết liệt, sự đối đầu của hai phía, một mất một còn. Khốc liệt ở chiến trường, khốc liệt ở hậu phương, len tới từng gia đình, từng ngõ ngách đời sống. Nhân vật của anh là những người lính cầm súng, là chiến sĩ lái xe, các cô TNXP mở đường, là người mẹ, người em gái ở hậu phương... Văn Xương nhìn chiến tranh ở một diện rộng. Từ tiền tuyến đến hậu phương, phía ta và phía địch, thời chiến và thời hậu chiến.

Đa phần những tác phẩm viết về chiến tranh của Văn Xương là những “bài thơ tình” thời chiến bằng văn xuôi. Cuộc đời và phong cách sống của Văn Xương in khá đậm nét trong văn chương của anh. Trong lời giới thiệu tập “Hoa gạo đỏ bên sông” nhà văn Cao Hạnh có nhận xét: “Trông anh bảnh bao như chàng thư sinh, hay nói, hay cười, nét mặt rạng rỡ niềm vui”. Tôi còn thấy Văn Xương khá đa mang, đa cảm, đôi lúc còn có biểu hiện rất lãng tử. Ngồi trên bãi biển Cửa Tùng, anh bị hút hồn vì cái màu xanh ngút mắt, cái mênh mang của biển lớn quên cả thời gian. Khi vui anh hát say sưa như một ca sĩ, khi nâng cốc thì luôn miệng cười, nói chuyện trên trời dưới biển, tất cả đều là bạn. Đó là bề nổi của cuộc đời. Phần chìm không phải như thế. Văn Xương đi học phổ thông và nhận bằng cử nhân trong thân phận một kẻ nghèo, vượt khó, tự lực cánh sinh là chính. Đã từng bốn năm cầm súng ở biên cương, nơi đầu sóng ngọn gió, vào thời buổi cái chết có thể chụp xuống đầu bất cứ lúc nào. Trở về đời thường Văn Xương làm rất nhiều việc khác nhau để cống hiến, để mưu sinh. Đức tính luôn lạc quan, yêu người, yêu cuộc sống đã cống hiến cho bạn đọc sự bình dị và ngọt ngào trong diễn xuất và lời văn. Đó là lời người yêu nói với người yêu, mẹ nói với con, đồng đội nói với nhau. Đó là những đoạn tả dòng sông miền Cỏ May, hồ Thiên Thu, suối bản Tà Cơn, tả mây trời, hoa cỏ, ráng chiều tím hoàng hôn... Thao thiết đến cháy lòng.

Văn chương ngọt ngào nhưng không phù phiếm. Nội dung của các truyện chứa đầy những cảnh hy sinh, mất mát, là những hố bom thiêu huỷ cả 10 cô gái thanh niên xung phong, sự thiếu ăn, thiếu mặc nghiêm trọng của những người lính Trường Sơn, là những sự ra đi mãi mãi không về, là tượng đài Thành Cổ ngút ngàn hương khói và nước mắt của những người tới tưởng niệm, là sự vò võ đợi chờ gần như hoá đá vọng phu... Đọc văn của Văn Xương thấy cái giá của hoà bình đắt quá, to lớn quá, nỗi đau đeo đẳng dài lâu quá.

Thường thì tiếng đàn bầu, sáo trúc, sáo tre chỉ ngân lên cho đôi lứa và làng quê thanh bình. Chiến tranh phải là nhịp điệu ầm ầm dữ dội. Văn Xương có một cách viết sáng tạo, những lời văn gân guốc xen kẽ sự ngọt ngào. Chẳng khập khiễng tí nào. Trong thực tế, dù quyết liệt bằng mấy cũng có phút bình yên giữa hai trận đánh. Đó là khoảnh khắc ở Trường Sơn, trên đầu là địch, là bom, bốn bề là địch, là đạn “Các cô ấy hát. Hát say sưa. Hát với tất cả nỗi lòng... Tôi thổn thức gục đầu vào lòng anh... Chúng tôi quyện vào với nhau, chìm tan trong nhau” (Một thời kỷ niệm). Viết về sự hy sinh của các cô gái, những chàng trai chiến sĩ, về những mối tình vĩnh viễn chia ly, kết thúc vẫn là “Hoàng hôn buông tím ngát chân trời, gió heo may se sắt thổi, những đám mây tím buồn cuối thu bồng bềnh trôi, bên kia sông ngẩn ngơ tím một con đò” (Dòng sông miền cỏ may).

Đi qua chiến tranh khá lâu nhìn lại, với vốn sống của chính mình, với tư tưởng hội nhập, đổi mới của thời đại, tác phẩm của Văn Xương có hậu và nhân hậu hơn.

Một thời, không ít tác giả nhìn chiến tranh một chiều, một phía đã đen là đen tuyền, đã đỏ là đỏ rực, không tì vết. Văn Xương có một thời gian hơn ba mươi năm nhìn lại, chiến tranh và người lính hai phía được miêu tả chân xác hơn. Trong hàng vạn chiến sĩ cách mạng quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh vẫn có ai đó, ở một thời điểm nào đó run sợ trước cái chết. Ninh đã “lạy trời đừng có tên con” khi đại đội trưởng gọi 10 đồng chí đánh lô cốt và “bàng hoàng, chết lặng đi, run run xóc lại khẩu súng” khi nhận nhiệm vụ cầm chắc cái chết (Dòng sông miền cỏ may). Anh lính bên kia chiến tuyến không chỉ sống đời sống thú vật, chỉ biết chém giết, đốt phá. Khi cái sự được sống chỉ còn tính bằng phút, người lính dù ngụy chợt thấy” Bóng má nơi bờ tre, hàng cau đầu ngõ, nơi rặng dừa, khóm chuối sau vườn... Người lính dù thấy mình bé cỏn con đang nằm gối đầu lên tay má. Nghe má ru, nghe má thì thào, vỗ về xiết bao hiền dịu, yêu thương mà cũng chất chứa xiết bao nỗi niềm...” (Hoài vọng).

Tính nhân bản trong tác phẩm của Văn Xương khá đậm đà. Nhiều nhân vật là con người viết hoa, có tính cộng đồng, thương yêu và đùm bọc lấy nhau. Linh đã chết thay cho Ninh (Dòng sông miền cỏ may), cô gái đã chết thay cho người lính trinh sát (Lung linh sóng nước). Dẫu một thời có đối mặt với nhau, chĩa súng vào nhau, hoà bình rồi, những người chiến thắng xoa dịu vết thương lòng, cùng nhau chung sống. Thật là cảm động và đẹp đẽ biết bao khi hai thương binh của hai phe đối địch nâng đỡ nhau rồi ngã. “Họ không ngồi dậy, cứ thế nằm sóng xoài bên nhau nhìn xuống dòng sông, rồi cùng nhìn lên bầu trời ngời ngời ánh trăng...”. Đứng trước tượng đài Thành Cổ “hai chiếc nạng gỗ được bỏ về hai phía, họ đứng sát nhau, kề vai nhau, cùng chắp tay thành kính trong khói hương ngút bay. Bóng họ như hoà làm một dưới ráng chiều của hoàng hôn đỏ thẫm” (Đối mặt thời gian). Vốn sống, sự từng trải, tư duy có độ chín của Văn Xương đã tiếp cận được truyền thống nhân ái của dân tộc “đánh kẻ chạy đi, ai đánh kẻ chạy lại; bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Đó cũng là quan điểm phù hợp với xu hướng lớn nhất của thời đại, chung sống hoà bình, thương yêu và cứu trợ lẫn nhau.

Cách kết thúc trong nhiều chuyện của Văn Xương làm người đọc nhớ lại cái hậu của cổ tích và văn nôm khuyết danh “Tống trân cúc hoa”, “Phạm công cúc hoa”, “Tấm cám...”. Người hiền, người trung thực dẫu chết đi vẫn được biến thành quả thị rồi từ đó lại bước ra rực rỡ trong tâm tưởng mọi người.

Văn Xương không viết truyện theo cách truyền thống, hoặc theo trật tự thời gian, hoặc theo trật tự không gian: từ gần tới xa hoặc ngược lại. Thời gian của truyện được thể hiện theo hoài niệm “nhớ đâu nói đấy”, hoặc theo ngôn ngữ và sự xuất hiện của nhân vật “Chuyện của ai người ấy kể”. Không gian nhiều khi được miêu tả cặn kẽ làm nền cho sự phát triển của truyện, nhiều khi chỉ tả điểm xuyết, minh hoạ, bổ sung. Những yếu tố bịa bao giờ cũng được bay bổng từ nền hiện thực khiến người đọc luôn tưởng rằng: ông ấy đang kể chuyện ông ấy đã từng chứng kiến. Những yếu tố huyền thoại cũng mạnh dạn được đưa vào. Đấy là những nàng tiên thiên nga và chiếc hồ thần thoại, là chiếc lá khô lộc vừng biết bay theo gió để chỉ hài cốt liệt sĩ... Yếu tố huyền thoại không nhiều, hình như Văn Xương đang thể nghiệm để thăm dò hiệu quả nhưng cũng phải nói rằng đó là sự thể nghiệm thành công, huyền thoại đúng chỗ và phù hợp làm tăng chất thơ trong truyện, gia tăng sự tưởng tượng bay bổng của người đọc, giảm sự căng thẳng mỗi khi mâu thuẫn đạt đến đỉnh cao. Yếu tố huyền thoại vì vậy không phù phiếm, làm mới cách viết.

Là “Nhà văn quân đội”, Văn Xương còn là “Nhà văn Quảng Trị” nhiều nhân vật của anh sống và hoạt động ở những địa danh thực của Quảng Trị. Trong văn của anh, tên sông, tên núi, tên làng của Quảng Trị luôn được nhắc đến. Ngôn ngữ trọ trẹ, mộc mạc răng, tê, mô, rứa, dẫu ở xa mà đọc vẫn biết là người quê mình. Trong một bài tuỳ bút nổi tiếng của nhà văn Nga Ilia Urenbua viết trong thời chống phát xít Đức có câu: “lòng yêu nhà trở thành lòng yêu Tổ Quốc...”. Ở đây, lòng yêu nước của Văn Xương bắt nguồn từ lòng yêu đất, nước và con người Quảng Trị. Văn Xương đã chọn đúng cho mình một mảnh đất anh hiểu và gắn bó như máu thịt của chính mình. Vì vậy văn chương có hồn, có sức sống, bẻ đôi câu văn thấy có máu chảy bên trong.

Nhìn tổng thể, truyện Văn Xương vẫn lộ ra vài nhược điểm cần lưu ý. Văn Xương quá lưu luyến với những ý tưởng, những tình tiết hay, những sự kiện độc đáo nên đã sử dụng rồi vẫn để nó xuất hiện ở truyện sau, tập sau. Cần thiết “cắt ái” là việc phải làm.

12.2008
L.V.T
(246/08-09)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.