Một đời thơ Phùng Quán

09:54 19/03/2008
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

MỘT ĐỜI LAO LỰC - MỘT ĐỜI CÙNG CỰC -MỘT ĐỜI THƠ PHÙNG QUÁN - TÌNH YÊU -CHIẾN ĐẤU - VÀ SỰ VĨNH HẰNG
Bắt đầu từ tình yêu quê hương nung nấu tâm hồn nhà thơ để đến với tình yêu em :
... Sáng chủ nhật. Hoàng đế mặt trời khoác long bào chói lọi hào quang, từ Tử Cấm Thành - biển Thuận An, xa giá lên vòm trời cổ tích Cố Đô. Ban nhạc cung đình chim sáo, chim cà cưỡng, chim sẻ, chim sâu... khắp các lùm cây trong thành phố ríu ran tấu nhạc. Con sông Hương tắm vàng nấu chảy...
                Sông Hương ơi !
                Gió thổi chi nhiều rứa ?
                Sóng vỗ làm chi rối ruột cả hai bờ
                Tôi ngồi... đá mọc thành thơ
                Ngóng về cửa Thuận... tôi chờ đò lên...
                Một đò lên...
                Hai đò lên...
                Ba đò lên...
                Mà tôi chẳng thấy bóng em trong đò...
                Bến sông đá tạc thành thơ
                Đá thơ ngơ ngẩn ngẩn ngơ đợi đò
                Một đò lên...
                Hai đò lên...
                Ba đò lên...
                                (chương 8 Đợi đò)
Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc
Tôi thấy mình đương đứng quá cheo leo...
                                (chương 10 Trái bí xanh)
Đối với Phùng Quán khi đã yêu hết mình anh trở thành "tội nghiệp" cái tội nghiệp đáng tôn vinh :
                ... Tôi biết
                em đâu phải Hằng Nga ngủ trong rừng?
                em có con phải nuôi
                có chồng phải bỏ
                em phải biết giá rau ngoài chợ...
                nhưng tôi vẫn quỳ xuống xin em
                ngay cả những phút nổi khùng
                em cũng đừng nói những lời chua chát
                em cũng đừng nói những lời cay độc...
Rồi như để biện minh cho mình nhà thơ tự an ủi :
               ... tôi chỉ biết với riêng tôi
                em là mái nhà
                giữa đồng hoang, trên sa mạc
                cho tôi ẩn trốn những trận mưa xấu xa 
                                                                                dung tục
                những trận mưa làm thối mục cuộc đời
                những trận mưa ngày càng nặng hạt !...
Cũng có đôi lúc gã si-tình-bi-tráng-Phùng-Quán ấy vẫn mơ một giấc mơ hoang tưởng :
                Trái tim tôi như trái cây bị dập nát
                rụng xuống từ cành cao
                tình tuyệt vọng là ngọn sào
                chọc cho trái cây rụng xuống...

                trái cây rụng vẫn mơ giấc mơ hoang tưởng
                may ra được gót chân em dẫm nát
                để trước khi tan vào bụi đất
                còn được hôn gót chân yêu...
Yêu như kiểu của nhà thơ Phùng Quán thì chúng ta xin bái phục. Không biết các thế hệ mai sau có yêu như thế không?
                ... quá đau khổ tôi trở thành lì lợm
                tôi xin em bớt giận...
                nếu không được ngồi
                thì tôi xin đứng
                cùng với cây chổi em dựng ở xó nhà
                nếu không được thở...
                tôi sẽ xin nín thở
                như cái ngày còn đi chăn trâu cắt cỏ
                tôi xuýt chết dưới đáy giếng làng
                vì mải lặn mò con cá bống thần
                                                cô Tấm bỏ quên...
                Và khi Phùng Quán bị người yêu ruồng bỏ xua đuổi ta lại càng thấy yêu thêm Phùng Quán, bỗng nhiên cái mất lại hóa ra được. Cái tình yêu đơn phương lại hữu hiệu trong biểu trạng tính cách nhân vật. Cái tình yêu lì lợm ấy chỉ có trong bản thể của Phùng Quán mà thôi :
                ...em giận dữ la lên :
                - đứng trong xó nhà cũng không được đứng !
                ... thì tôi ra đứng trước hiên...
                - đứng trước hiên cũng không được đứng !
                ... thì tôi xin ra đứng ngoài ngõ...
                - đứng ngoài ngõ cũng không được đứng !
                ... thì tôi xin ra đứng đầu đàng
                Tôi nhìn vào khung cửa nhà em
                môi rát bỏng những lời yêu thương...
Và cuộc đối thoại của tình yêu đến hồi quyết liệt ta tưởng chừng tan vỡ :
                - đứng đầu đường cũng không được đứng
                lời yêu thương cũng không được nói !
                ... thì tôi xin chết...
Tim ta như muốn ngừng đập và tưởng chừng như anh chàng thương binh đã từng là lính trinh sát của trung đoàn đã chọn nhầm đối tượng nên bị nhồi máu cơ tim có thể ngất đi, nhưng không ta lại nghe nhà thơ trỗi dậy nói :

 

 

                Nhưng tôi không nói lời vĩnh biệt
               vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh............
Và như để khóa lại lời cam kết của mình nhà thơ thốt lên :
                dù hỏa táng
                dù chôn xuống chín tầng đất
                trái tim dập nát của tôi vẫn thắm một khối tình !
Chưa hết, nhà thơ còn chưa để cho mối tình tan biến đi trong không gian và thời gian :
                nếu dại dột
                một sớm mai nào đó
                em bỗng bay mất
                tôi sẽ tan vào mưa Huế những ngày đông
                xối xả xuống tất cả những nơi nào em đã đặt chân !
Khi tình yêu đã mất nhà thơ chỉ biết lấy chén rượu để giải sầu và vắt kiệt sức lao động của mình để bù vào chén cơm manh áo. Nhà thơ đã viết ... cạn kiệt thơ giữa cuộc sống thị thành, tôi quyết định rời bỏ gia đình bạn hữu giữa cái tuổi ngoài 50, lên rừng tìm đào bới mạch thơ giữa thiên nhiên.
Tôi đã sống một mình suốt ba năm (6-1981 đến 8-1984) trong cái lán lợp tranh lá mía, giữa một bãi đất phù sa cổ hoang vu vùng đồi núi Thái Nguyên. Quanh ngôi lán mọc lút đầu cỏ dại và cây trinh nữ xanh.Trước mặt lán là con suối Linh Nham. Mùa mưa lũ, nước đỏ ngầu phù sa cuốn theo củi rều lá mục, cây rừng trốc gốc, xác súc vật chết... cuồn cuộn dâng cao... Trong ba năm tôi đã ăn thịt được ba chục con hổ mang chì, giết chết vài chục con rắn lục, săn bắt vài chục con móc xiết - một loài chồn răng sắc như gươm sinh sống bằng thịt rắn - đốt phá hơn chục tổ ong lỗ...
Tôi sống cùng với một con chó, một con heo, một bầy gà cùng sắn bắp rau lang ốc suối và tôm cá tự đánh bắt lấy.
Trong ba năm chỉ có hai người bạn cũ từ Hà Nội lên thăm. Một giáo sư sử học và một nhà thơ.
Gặp lúc ốm đau, tôi tự chữa bệnh với lá xông, rượu tự cất lấy bằng sắn và men lá, và tia cực tím của mặt trời.
                Tôi phải lên rừng
                Hái lá khổ sâm
                tự mình cất lấy ly rượu sống...

               Ơi rượu khổ sâm đắng lắm !
                đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...

                bạn hữu thân thiết ơi !

 

 

                xin đừng trách cứ tôi
                sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
                chỉ vì
                tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
                vừa cạn chén rượu đời
                cất bằng lá khổ sâm...
Nhưng rồi lá khổ sâm cũng không còn nữa, những con cá con cua cũng rời bỏ nhà thơ, những con rắn con cheo trong rừng cũng lẫn tránh nhà thơ... Sức tàn lực kiệt gót nhọc lòng đau, nhà thơ đành tìm về với mẹ - đó là đất Cố đô. Sông Hương mở lòng ra đón đứa con lưu lạc trở về :
                ... nhưng cuối cùng quê hương đã nhận ra
                trái-tim-thơ-trong-sạch
                và gương mặt Thơ-bi-thiết -của tôi...
Đó là câu thơ đầu tiên khi gặp lại Huế tôi nức nở thành lời.
Văn hữu và thi hữu quê nội hay tin tôi trở về đã quây quần săn sóc, đùm bọc chiêu đãi tôi.
Văn hữu thi hữu quê tôi nghèo lắm, có lẽ nghèo nhất đất nước. Thế mà vẫn chiêu đãi tôi theo cung cách các vương hầu thời chiến quốc chiêu đãi bạn. Ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn.
Rượu như lửa tôi uống tràn thay nước. Tôi van các bạn rượu thì đắt mà các bạn thì nghèo, đừng cho tôi uống nữa!
                Các bạn gạt đi...
                Đất Cố đô bao giờ chịu mang tiếng
                Để một nhà thơ phải đói rượu giữa quê hương !
                Tôi ngất ngưởng sống, ngất ngưởng thơ, ngất ngưởng say.
                Và tôi ngất ngưởng gặp nàng...
Chết đi sống lại bâm dập bao lần thế mà mới hồi sức lại ngất ngưởng yêu. Yêu như thế thì đến trời cũng phải sợ. Người đọc cũng bật cười nhưng cười ra nước mắt.
Năm 1950 Phùng Quán là chiến sĩ trinh sát của trung đoàn. Trong một trận chống càn ở chiến trường Bắc Thừa Thiên, tiểu đội trinh sát bị giặc bao vây tiêu diệt, chỉ còn một mình Phùng Quán may mắn sống sót, chân bị thương.
Nửa đêm, từ giữa cánh đồng khô nẻ, anh bò vào làng tìm nước uống. Anh bị rơi xuống một con lạch sâu xâm xấp bùn. Anh vùi mặt vào bùn để dịu bớt cơn khát... Những câu thơ ập đến trong đầu, tưởng chừng như nó vọng lên từ lòng mẹ. Đất ru đứa con chiến sĩ vào giấc ngủ kiệt sức mất máu...    
                ...ai yêu đất bằng tất cả cuộc đời mình
                sẽ được nghe đất hát...
                Đất ơi !
                Con nguyền yêu người với tất cả máu xương
                với tất cả cuộc đời con mười bảy tuổi !
Trong trận công đồn diệt viện Phò Trạch Thừa Thiên, Phùng Quán đã viết quyết tâm thư bằng máu :
                nếu tôi chết
                xin các đồng chí đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                Hãy chôn tôi ngay chính nơi tôi đã ngã !
                dù đồng xanh hay giữa núi đồi
                dù bãi lầy trảng cát xương rồng gai
                hay ngay bên rệ đường tôi nằm phục kích
                mà không ngày nào đinh giày và xích xe tăng địch
                không xéo dày lên phần mộ của tôi
                dù thế đi nữa các đồng chí ơi !
                cũng đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                hãy chôn tôi nơi chính tôi đã ngã !

                để mát dạ những người đã khuất
                người ta trồng cây đẹp rủ bóng lên nghĩa trang
                nhưng quanh mộ tôi
                xin đừng trồng bạch đàn liễu biếc hay thủy dương
                hãy trồng cho tôi một nghìn mũi chông nhọn hoắt
                mỗi mũi chông đều nhớ tẩm thứ thuốc độc mạnh nhất

                viếng mộ tôi xin đừng đốt hương
                hãy đốt cho tôi ngọn lửa đốt đồn
                khắp cả quê hương đều ngó thấy
                soi sáng hết những nơi nào máu nhân dân đương chảy.

                Nếu phần mộ tôi là vị trí tốt để đánh mình
                xin các đồng chí đừng do dự gì tất cả
               Hãy đào mộ tôi lên
                quẳng hài cốt tôi đi !
                và thay vào đó cho tôi một trăm cân thuốc nổ !

                xin các đồng chí đừng đưa tôi đi đâu hết cả
                hãy chôn tôi nới chính tôi đã ngã !
                                               (Di chúc chiến sĩ 1952)
Chừng đó thôi đã quá đủ để ta hiểu về con người Phùng Quán, chưa kể đến Vượt Côn Đảo, Chống tham ô lãng phí, Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Hôn, Lời mẹ dặn, Trường ca cây cà, Anh là ai và anh từ đâu đến, Tuổi thơ dữ dội...
                ... Tất cả những gì bạn nếm trải suốt cuộc đời
                tận cùng niềm vui
                tận cùng nỗi khổ
                với bạn cũng chỉ là chơi.
                khi không còn cách gì chơi mới nữa
                bạn chơi ung thư...
                bạn sẽ xuống địa ngục ?
                hay bạn lên thiên đường
                tôi chắc bạn đến cả hai nơi
                bạn chơi luôn cả thiên đường địa ngục !
                                                (thơ đọc trước linh cữu Trần Thịnh
                                                hiệu là  Thịnh Râu đạo diễn điện ảnh)
Bài thơ tặng cho bạn và cũng tặng cho mình, không lâu sau nhà thơ Phùng Quán cũng chơi cái trò chơi "tuyệt vời" đó. Khúc bi tráng nhà thơ còn dang dở anh đã ra đi giữa lúc tài năng đau chín.
                ... đã đi với nhân dân
                thì thơ không thể khác
                dân máu lệ khôn cùng
                thơ chết áo đắp mặt ! ...
                ... đừng buồn nữa em ơi
                chuyện ngàn năm... ngàn năm...
                                                (Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe)
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :
                trong trăm nghìn nỗi đói
                tôi nếm trải cả rồi
                tôi chỉ kinh khiếp nhất
                là nỗi đói tình người
                                (Đói, thơ Phùng Quán)
Nhà thơ Phùng Quán có viết tặng Hoàng Cầm bài thơ có tựa đề là : Viết tặng Hoàng Cầm thi sĩ trong giây phút anh ngã lòng suy sụp, trong bài thơ ấy có một đoạn :
                ... tôi có một niềm tin
                chắc như đinh đóng cột
                ngày mai anh nhắm mắt
                đi sau linh cữu anh
                có cả con sông Đuống ! ...
Để kết thúc bài tưởng niệm ngắn nầy tôi xin mượn ý bạn trong đoạn thơ trên nhưng xin phép chữa một câu :
                Tôi có một niềm tin
                chắc như đanh đóng cột
                ngày mai anh nhắm mắt
                đi sau linh cữu anh
                ngoài bạn hữu gia đình
                có cả thiên đường
                và địa ngục.
                                     16-12-1998
THU BỒN  
(nguồn: TCSH, 3.1999)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.