LÊ THANH NGA
Châu Âu - một không gian văn hóa mà nền dân chủ phát triển trước nhất trong lịch sử nhân loại - ngay từ thời trung cổ đã là trung tâm của lễ hội Carnaval (tiếng Việt: lễ hội giả trang).
Ảnh: tư liệu
M.Bakhtin (1895 - 1975) đã nhận ra ở trong đó hàm chứa những đặc trưng cơ bản của văn hóa trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục Hưng: “Chính Carnaval, với toàn bộ hệ thống phức tạp và biểu tượng của nó, là biểu hiện đầy đủ và thuần túy nhất của văn hóa trào tiếu dân gian”1. Nhưng điều quan trọng là Bakhtin không chỉ đơn thuần nhìn thấy tinh thần này như một mã văn hóa riêng có của hiện tượng, mà tác giả còn gửi gắm vào thuật ngữ hàm ý chỉ một nguyên tắc thế giới quan, một đặc tính mang diện rộng của văn hóa và là một công cụ nghiên cứu thi pháp học văn hóa.
Theo quan niệm của Bakhtin, văn hóa trào tiếu dân gian chính là cội nguồn của văn hóa Carnaval - một nền văn hóa dường như đã trải qua rất nhiều thế kỷ chấp nhận thân phận ngoại biên mặc lòng nó chính là một bộ phận quan trọng cấu thành, khiêu khích, tạo những xung đột để/và thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài người. Bakhtin đã chỉ ra, trong cuốn Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục Hưng, rằng văn hóa thống trị của nhà nước thần quyền với văn hóa trào tiếu dân gian luôn là hai thế lực đối lập. Khi nghiên cứu các lễ hội dân gian để chỉ xuất phẩm chất trào tiếu của chúng, Bakhtin đã loại ra ngoài các lễ hội chính thống do chính quyền tổ chức, chỉ tập trung chủ yếu vào các lễ hội dân gian với các đặc trưng cơ bản là không khí vui vẻ tự do trong đó hàm chứa khát vọng “lộn trái” những gì thuộc về tính nghiêm túc nghi lễ mang tính chất hành chính chính thống. Ở đó, người ta giải phóng mình hoàn toàn khỏi những nguyên tắc, trật tự mang tính giáo điều… Phan Trọng Hoàng Linh đã khái quát tinh thần này trong ba điểm cơ bản: 1. Vào thời Trung cổ, phần lớn các thời gian trong năm, nền văn hóa trào tiếu dân gian luôn bị mặc định ở khu vực ngoại biên của đời sống văn hóa; 2. Thời điểm lễ hội (dân gian) là khoảng thời gian duy nhất trong năm văn hóa trào tiếu được chiếm vị trí trung tâm; 3. Thời gian lễ hội tạo ra một không gian sinh tồn khác, mà khi con người được bước vào, họ được giải phóng khỏi mọi quy phạm, chuẩn mực văn hóa thường ngày; do đó, lễ hội Carnaval là loại thời - không gian mang tính tự do, tính phi chính thống và tính phi lý tưởng/không tưởng2.
Đoàn Văn Cừ sinh ở một vùng nông thôn miền Bắc, trong một gia đình nông dân. Nghĩa là không gian xuất thân, sinh tồn ở cái thời hình thành nhân cách của nhà thơ chủ yếu thuộc phạm vi văn hóa ngoại biên ở một xứ sở mà nghìn năm trước đó, trung tâm là chỗ độc bá của nền tảng tư tưởng Nho giáo cùng bộ máy hành chính và hệ thống các quan niệm, lối ứng xử xuất phát từ tư tưởng ấy…. Nông thôn Việt Nam với tính độc lập cao hẳn nhiên vẫn có một không gian tồn tại riêng với những đặc trưng riêng, bởi về cơ bản nó không chịu đựng một cách triệt để sự câu thúc, chi phối của hệ tư tưởng chính thống, nhất là khi người ta thoát khỏi các quan hệ trong không gian đóng (kiểu quan hệ gia đình, họ hàng) để tồn tại trong một không gian mở (không gian vui chơi, không gian lao động). Không phải tự nhiên mà trong kho tàng sáng tác của nhân dân lao động, chiếm một phần rất lớn là các sáng tác về nghề, trong đó không ít tác phẩm mang phong vị trào tiếu duyên dáng. Đọc các tài liệu nghiên cứu văn hóa, chúng ta có thể thấy, dường như ở miền bắc Việt Nam, nơi tư tưởng Nho giáo với những quy phạm ứng xử chặt chẽ nhiều khi đến nghiệt ngã với thiên hướng luôn nặng nề về hành chính trong tính hà khắc chính trị, các lễ hội dân gian lại xuất hiện khá nhiều như là nỗ lực chống lại quyền lực của nhà nước.3 Ngoài các ghi chép văn hóa, cũng có thể thấy các lễ hội này được nhắc đến trong một số tác phẩm văn học gần đây (Con gái Thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh…).
Sinh ra trong không gian văn hóa nông thôn, với căn cốt nông dân, một cách tự nhiên, Đoàn Văn Cừ, trong thơ, thường thể hiện con người gắn với làng xã, như một cách thể hiện căn cốt, tình yêu và niềm hoài niệm những giá trị truyền thống trước nguy cơ chiến thắng của đô thị. Tất nhiên, đây không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là câu chuyện của cả một thế hệ. Hình ảnh nông thôn đẹp một cách u buồn từng xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính, Quách Tấn, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… Đành rằng mỗi nhà thơ, nhất là các nhà thơ lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945, có một phong cách riêng. Nhưng Đoàn Văn Cừ, trong số các tác giả viết “chuyên” hoặc không “chuyên” về nông thôn, là trường hợp khá đặc biệt. Nông thôn, làng quê xuất hiện trong thơ ông không chỉ có cái u buồn như một nét đặc trưng hồn cốt của người Việt, mà còn nhiều phần tươi vui bởi cái sinh động của sự sống nông thôn diễn ra hằng ngày, thân thiết và giản dị trên tinh thần cộng đồng làng xóm. Và bởi thế, hầu như ở bài thơ nào của ông viết về đề tài này ở giai đoạn 1932 - 1945 đều mang ít nhiều âm hưởng của lễ hội.
Với người Việt (xưa kia), tết là dịp nông nhàn. Ở đó có một quãng thời gian đủ để người ta đắm mình trong không khí vui tươi bởi muôn kiểu hội hè, ăn chơi sau một năm lao động cực nhọc. Câu “tháng giêng là tháng ăn chơi” hàm chứa một thông điệp về tính mùa của lễ hội. Cuộc sống hiện đại với sự cải tiến hạt giống và kỹ thuật canh tác, nhu cầu phát triển đã thu lại thời gian ăn chơi chỉ trong vài ngày tết, với ít hội hè, ít trò vui dân gian hơn, nhưng những ký ức về những cuộc ăn chơi truyền thống vẫn được bảo lưu trong những tài liệu, tác phẩm văn hóa, văn học dân gian và ký ức người già. Hai chữ “chợ tết” vì thế trước hết gợi lên một thời gian đậm màu sắc lễ hội. Mặt khác, hai chữ “chợ tết” xướng lên một tinh thần đối thoại giữa cái trang nghiêm và cái bỗ bã, cợt nhả. Nếu “tết” gợi một ý thành kính, thiêng liêng thì “chợ” lại gợi một ý mang hàm nghĩa giải thành kính, giải thiêng. Nếu tết là nơi để người ta sống trong những quy tắc, lề luật, nặng về phần lễ, thì chợ lại là nơi tự do mà chất tự do ấy thể hiện một cách đầy đủ nhất trong câu “thuận mua vừa bán”. (Ngoài ra, cần chú ý là trong con mắt dân gian, những gì thuộc về phần tự do, hỗn độn, vô lối thường được ví với “cái chợ”: lớp học ồn ào như cái chợ, ba người đàn bà với con vịt là thành chợ…). Ở đây chúng tôi muốn lưu ý thêm là dường như Đoàn Văn Cừ rất thích quan tâm đến không gian hội hè và phong tục nông thôn. Thơ ông tràn ngập những chi tiết, hình ảnh, sự kiện như thế này: chợ tết hội làng, đám hỏi đám tang, ngày mùa, năm mới, chợ làng mùa xuân…
Không gian chợ tết trong bài thơ của Đoàn Văn Cừ trước hết tạo ra một “địa bàn” sống khác cho con người. Ở đó người ta có những thời khắc thoát khỏi những ràng buộc luật tục như chúng tôi vừa kể trên, để được sống là mình trong cái hồn nhiên, tự nhiên đã bị tước đoạt trong những ngày thường của năm. Bởi thế mà gây ấn tượng trong bài thơ trước hết là kiểu không gian tươi vui với xu thế phổ biến những sắc màu gam nóng và mang đặc trưng của tết trong đó màu đỏ, vàng, nâu, là màu sắc chủ đạo với 17 lần xuất hiện (trong đó 12 lần màu đỏ, son, nâu) so với 5 lần của màu trắng và 4 lần của màu xanh (nếu tính cả hình ảnh “cỏ”, “lá” được nhắc đến). Gam màu nóng ấy không xuất hiện đơn độc mà cùng với nó là gam màu trầm, lạnh cũng xuất hiện tạo nên một thế giới hô ứng rộn rã cảm xúc thị giác. Điều này gợi lên thứ sắc màu rộn rã tự do của các hình ảnh hóa trang trong lễ hội mo nang của người Việt hoặc lễ hội Carnaval Âu châu.
Và trên thảm màu sắc rộn rã ấy là sự sinh hoạt của con người. Có cảm giác ở đây mọi người đều tất tả, nhưng trong sự tất tả ấy không hề gợi một ý niệm về sự vội vã của những ngày tất bật lo chuyện áo cơm và dè chừng các mối quan hệ, mà là niềm vội vã hoan lạc. Đấy là một thế giới vận động không ngừng với mỗi người một hành động theo chính nhu cầu, sở thích, mục đích của mình trong trạng thái chan hòa có phần mặc kệ, không phân biệt tuổi tác, giới tính, đẳng cấp. Và điều đáng nói là với mỗi hành động như thế, cái “tôi” của mỗi người đều được bộc lộ một cách chân thực: “Thằng cu áo đỏ” thì “chạy lon xon” đúng tâm lý trẻ thơ được ra chợ tết, “cụ đồ nho”, một cách điệu đà thường thấy, “dừng lại vuốt râu cằm” để “miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ”; “cô yếm thắm” “che môi cười lặng lẽ” - một kiểu làm duyên thôn nữ, mấy cô gái chắc là nghe hay nhìn thấy điều gì khiến nét yểu điệu thục nữ bay mất, “ôm nhau cười rũ rượi” “cạnh anh chàng bán pháo dưới gốc đa”… Không chỉ con người, tất cả các sự vật, hiện tượng xuất hiện trong tác phẩm đều trong tư thế vận động: “dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi”, “sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh”, “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa”, “tia nắng tía nháy hoài trên ruộng lúa”, “Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh”…
Trong thế giới vui nhộn này, Đoàn Văn Cừ, bằng cảm hứng trào tiếu, đã mở ra một kênh giao tiếp khác với người đọc, đó là sự giao tiếp trên phạm trù cái hài. Rất sinh động, rất chân thật bằng cái nhìn của một thi sĩ xuất thân làng xã, tác giả đã nhìn thấy trong hình ảnh những người bán lợn tính chất lễ hội, như một cuộc đua, vội vã mà tươi vui, và phía sau là “người bạn” đang như chạy tiếp sức cho họ, trong cái xôn xao của không khí chung:
Họ vui vẻ kéo đoàn trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau
Cảm hứng trào tiếu ấy được tiếp tục trong những miêu tả ngộ nghĩnh về thế giới, kiểu “lột truồng” bản chất của sự vật và con người. Nếu hành động “che môi cười lặng lẽ” của cô yếm thắm là một hành động giả trang, thì cái “cười rũ rượi” của mấy cô gái cạnh anh chàng bán pháo dưới gốc đa chính là một cú “lộn trái” để “bóc trần” bản chất; hoặc việc một người mua “cầm cẳng” “dốc” con gà lên xem cũng là một cái nhìn thẳng vào cái thô, có phần thô bạo của những người dân nông thôn miền Bắc. Cùng với đó, sự liên tưởng cái mào thâm của con gà trống với cục tiết là một kiểu so sánh thành thực đến quê mùa.
Sẽ dễ dàng nhận ra hơn cảm hứng trào tiếu trong bài thơ nếu đặt các biểu hiện không gian trong các mối liên hệ để nhận ra, tính chất vận động của thế giới chợ tết được nhấn mạnh một phần do sự đối lập các thành phần trong thế giới ấy. Đó là đối lập giữa cái cung đình và cái bình dân, cái nghiêm trang với cái hài hước, cái duyên dáng và cái kém duyên: Cô yếm thắm e lệ, duyên dáng, người già nghiêm nghị với hai người thôn “gánh lợn chạy đi đầu”, với con bò vàng ngộ nghĩnh, cụ đồ nho vuốt râu cằm, đọc câu đối đỏ với mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi… Trong đó có những hình ảnh đối lập thật sự sinh động:
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ
Để lắng nghe người khách nói bô bô
Trâu là một “nhân vật” khá quan trọng đối với nền kinh tế lúa nước, nhiều khi là nhân vật trung tâm, tham gia vào chuỗi phân công lao động: “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, nhưng trâu cũng là nhân vật hài hước: đàn gảy tai trâu, cười như trâu, trâu cười đến gãy cả hàm răng khi trâu cười trong Trí khôn tao đây… Nói bô bô là một biểu hiện khá vô duyên, đây chắc là một vị khách đang phe hàng. Bô bô là kiểu nói liến thoắng, nói lấy được, không cần quan tâm đến thái độ người nghe và thậm chí người nói nhiều khi không cần quan tâm đến nội dung phát ngôn. Hình ảnh nhân hóa con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ để lắng nghe người khách nói bô bô hàm một ý vị bỡn cợt thâm thúy. Và, nếu nói trào tiếu dân gian có thể “lộn trái” những gì thuộc về tính nghiêm túc nghi lễ mang tính chất hành chính chính thống thì hình ảnh sau đây chính là sự “lộn trái” ấy:
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra
Chuyện cũ kể rằng trong một trại gồm có các phạm nhân đi đày ở Côn Luân, một tên cai chỉ vào từng người với một câu hỏi: “trước kia mày làm gì?” Một sĩ phu đáp: “Tiến sĩ”. Tên cai: “Tiến sĩ thì một roi này”, và hắn quất một roi. Người tiếp theo là lý trưởng, ngay lập tức tên cai thụp xuống: “Lạy ông Lý ạ”. Thêm nữa, với hình ảnh được miêu tả trong văn chương, các “ông lý”, “cụ lý” thực sự là một thứ quyền lực. Tuy nhiên, ở trong cái chợ tết này, với sự “sấn kéo” của người đi chợ, cụ lý bỗng trở nên nhếch nhác, hài hước và có phần lố bịch.
Có thể thấy, đọc Chợ tết, thoạt tiên, người ta có thể bị mê dẫn bởi không khí lễ hội trữ tình tươi vui với một thế giới sắc màu biết nhảy múa. Và người ta có thể thấy, bên cạnh cái nhìn tươi vui, chủ thể trữ tình còn mang một chút tâm trạng u buồn, và có thể là một chút bâng khuâng khi dự cảm được những nét tươi vui ấy sẽ mai một trong một tương lai nào đó, khi nền văn minh phương Tây đang xâm chiếm và lấn át dần không gian văn hóa Việt, với hình ảnh khép lại bài thơ: “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”. Tuy nhiên, cùng với chất trữ tình tươi vui với nỗi bâng khuâng buồn ấy, không thể không nhìn thấy trào tiếu dân gian chính là một cảm hứng quan trọng làm nên một nét đặc trưng của bài thơ.
L.T.N
(TCSH408/02-2023)
--------------------------
1 Bakhtin.M (2006), Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục Hưng. (Từ Thị Loan dịch). Hà Nội: Khoa học xã hội, tr.138.
2 Phan Trọng Hoàng Linh (2018), “Nguyên lí carnaval trong thi pháp học của Mikhail Bakhtin”, Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
3 Trong các lễ hội này, có kiểu lễ hội mang đậm đặc điểm của không gian luyến ái, ái dục tự do (như Hội Lim ở Bắc Ninh, nhất là lễ hội linh tinh tình phộc ở Phú Thọ…).
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.
TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)
NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.
VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)
NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.
YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".
VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)
VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.
TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001
LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001
HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.
HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)
UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).