Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.
Người Việt đầu tiên tuyên bố với bốn phương bản tuyên ngôn độc lập, công trạng chất ngất, nhưng sử sách nước nhà còn lại rất ít. Sách này vốn do NXB Sông Nhị (Hà Nội) in năm 1949, là một đặc khảo công phu về Lý Thường Kiệt.
“Đối với một anh hùng dân tộc bậc nhất trong lịch sử nước ta, sử sách ta tuy có ghi công, nhưng chép sự nghiệp một cách sơ sài và sai lạc. Lại thêm các nhà văn phụ họa, làm cho ngày nay chúng ta rất mơ hồ về đoạn sử oanh liệt nhất của tiền nhân”, nhà văn hóa Hoàng Xuân Hãn viết trong lời tựa năm 1949.
Sách này gồm 15 chương, chia làm 3 phần, đi theo các công trạng lừng lẫy của Lý Thường Kiệt, từ “bại Chiêm - phá Tống”, “kháng Tống - đòi đất”, đến “vì dân - vì đạo”. Đọc những chương như Cầm quyền bính, Chính sách Bắc cương triều Lý, Hòa và hòa bình, Khôi phục đất mất, Đạo Phật đời Lý, Lý Thường Kiệt với đạo Phật… không chỉ để hiểu hơn về tầm cỡ và sự tiên tri xuyên thời đại của Lý Thường Kiệt, mà vẫn còn nóng hổi tính thời sự của hôm nay. Sách không chỉ nói đến những trận đánh và sự kiện, mà còn phác họa sinh động tính cách, con người, phong thổ, phong hóa, nếp nghĩ, bối cảnh sống… của thời Lý Thường Kiệt.
Người viết sách này lại là Hoàng Xuân Hãn (1908 - 1996), một chuyên gia về sử học, ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam. Ông còn là giáo sư toán học, kỹ sư, nhà giáo dục; người đầu tiên soạn thảo và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ quốc ngữ tại Việt Nam. Tháng 4/1945, ông tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng Giáo dục - Mỹ thuật, ra quyết định việc học và thi tú tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức.
Năm 2000, Hoàng Xuân Hãn được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm công trình lịch sử và lịch Việt Nam, trong đó có cuốn Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý. Tháng 8/2011, Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris) lấy tên giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt tên cho một giảng đường. Trước đó, nhân kỷ niệm 100 năm truyền thống của trường này, Hoàng Xuân Hãn được vinh danh vào top 100 sinh viên tiêu biểu nhất trong suốt lịch sử.
Theo Văn Bảy - TT&VH
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng