HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.
Một cuốn sách mà khi thực hành những chỉ dẫn, chúng ta sẽ thêm một lần trở về với chính mình, trở về với cảm giác rất gần với sự an lạc đang không hề dễ bắt gặp trong cuộc sống hiện tại.
Ở đó, chúng ta sẽ gặp những cách thức làm các món chay, nhưng không chỉ là món chay thông thường, mà là những món chay đã từng được giữ gìn ở Kinh đô Phật giáo Huế - vùng đất có trên 1000 ngôi chùa, hơn thế nữa, trong đó một số món chay đã từng được thi triển công phu tinh xảo qua bàn tay những nghệ nhân trong đội Thượng thiện cung đình Huế xưa cũng được tái hiện lại (Thân phụ của chị xưa là quan Nam triều Bộ Lễ, Bộ Học, Ủy viên phiên dịch sử liệu Việt Nam của Trường Đại học Luật khoa Huế. Hiền mẫu là một nghệ nhân ẩm thực của đất Thần Kinh). Sách hướng dẫn 8 món khai vị tao nhã: Bánh ướt Lạc Việt, Chả cánh phượng - cơm Bồ đề, Cuốn cải xanh, Gỏi rong biển tứ quý…; 19 món ăn chính lừng danh: Canh cải thảo cao lầu, Cà ri xanh, Lẩu củ sen chua cay, Ra gu gấc, Đậu hũ rau răm, Mộc nhĩ chưng tương, Cơm chiên bí đỏ, Cơm hấp lá sen, Xôi lá dừa ngũ vị… Và 5 món tráng miệng thanh lành: Bánh đậu dinh dưỡng, Bánh hoa hồng nướng, Chè hạt sen bọc nhãn, Khoai hấp đường 3 màu, Trái cây nướng mật.
Những món chay đó vừa quen vừa lạ, rất dân dã song cũng rất đỗi cầu kỳ, công phu khi chế biến. Mới xem qua tên món ăn, tưởng như rất khó nấu, nhưng khi đọc hướng dẫn và nhìn hình ảnh, thì những người chưa từng biết ăn chay cũng có thể tự tin hình dung được món ăn mình sẽ nấu.
Cái cách trình bày với hình thức quá đẹp và tao nhã là một thành công của cuốn sách này. Các món ăn đều có những hình ảnh minh họa rất đẹp được trình bày như các tác phẩm nghệ thuật. Nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh kể, chính tay chị nấu từng món, tự trình bày ra đĩa bát rồi nhờ chuyên gia nhiếp ảnh thực hiện. Sự tỉ mỉ, cẩn trọng đan thanh nét tài hoa hiển hiện trên từng hình ảnh, trên từng ngọn rau thơm xanh, từng lát ớt đỏ, từng miếng bí vàng, từng hạt cơm trắng, từng cánh sen hồng… Đó là sự “siêu thơ” của ẩm thực.
Nhưng cuốn sách không chỉ có thế, cái làm nên chữ tình và nét duyên của sách là bên những cách thức làm bếp, còn là những ký ức miên hoài ăm ắp nỗi nhớ về Mẹ. Mỗi món ăn đều có những đoạn ngắn bình về sự hữu ích của món, và hiện lên hình ảnh người mẹ đã từng nấu món ăn đó trong những ngày ấu thơ. Trong “Lời thưa” đầu sách, nhà thơ viết: “Theo lệ thì nhà tôi mỗi năm ngoài mâm cỗ chay đưa rước ông bà, đầu năm còn có thêm bốn, năm cái giỗ mà người Huế thường gọi là kỵ. Với mẹ tôi thì việc chuẩn bị mâm cỗ chay thường tốn công hơn làm cỗ mặn, các nguyên liệu thảo mộc được chế biến công phu và tinh khiết… Những mâm cỗ chay mà mẹ tôi thường gọi là “cỗ lợt” có trên 20 món, mỗi món một chút được bài trí công phu, tinh tấn… Tôi hình dung mỗi món chay là một đóa hoa tâm kết nối giữa người nấu và các đấng thiêng liêng…”. Những ăm ắp nhớ mẹ trải bày trong từng món ăn trong sách, như nhớ mẹ qua từng cái thân chuối, cọng rau: “Nhớ thời nhỏ vườn nhà mình mẹ trồng rất nhiều cây ăn quả, nhất là chuối. Tôi chỉ nhớ là mẹ thường nói ăn chuối rất tốt, ăn chuối bổ máu, ăn chuối tốt cho xương, ăn chuối tốt cho tim mạch… Cho nên hễ lứa chuối này tàn là mẹ lại kịp thời gầy lứa khác, và cũng nhờ thế mà chị em chúng tôi luôn được ăn những món cây nhà lá vườn nhiều chất dinh dưỡng. Độc đáo nhất là khi chuối trổ buồng và chín, thân chuối vẫn sử dụng để chế biến món ăn được. Mẹ chọn mấy bắp chuối sứ trắng bào mỏng, xả sạch mủ rồi nấu canh chua với lá me non làm món giải nhiệt mùa hè…” (trang 25). “Hồi nhỏ em út tôi ít thích ăn rau, mẹ tôi phải ép ăn rau bằng cách cắt nhuyễn rau trộn chung với cơm, em mếu máo, mẹ dỗ “ăn rau nhiều chất xơ, ăn rau mau lớn, con gái ăn rau mát da…”. Cái câu ca ấy ngày nào, bữa ăn nào chúng tôi cũng được nghe đã trở thành thói quen…” (Tr 28). Và sen nữa, làm sao không nhớ: “Mẹ tôi người làng Phú Mộng ở miệt Kim Long xứ Huế, nơi đó ông tôi có một hồ sen khá lớn, so với sen hồ Tịnh Tâm ngon nổi tiếng thì sen Phú Mộng cũng bên tám lạng bên nửa cân. Đến mùa sen nở, sen tàn, tôi thường theo các cậu chèo thuyền khắp hồ để hái hoa, bẻ gương sen…”. Nhiều khi, có những món ẩm thực sáng tạo được khởi nguồn từ sự yêu kính mẹ, như “Xúp dinh dưỡng xanh” là một: “Cơ địa của mẹ rất nhạy cảm với khí trời, nắng không ưa mưa không chịu, thấy thịt cá chưa ăn đã muốn đầy hơi, mới ra nắng chút xíu là da mặt xám xịt… Qua một số tài liệu… đánh giá bông cải xanh không những là món ăn tốt cho sức khỏe mà còn giúp tế bào da ngăn ngừa những tổn hại…, làm chậm quá trình lão hóa. Tôi ngẫm nghĩ nên “biến tấu” một món ăn chay mà nguyên liệu chính là bông cải xanh kết hợp với một số nguyên liệu phụ có đầy đủ tính ôn, trầm, nóng, lạnh…”.
Cứ thế, những “món chay dâng mẹ” cứ thảo hiền từng món, ngọt tình từng thức theo mùa, quanh tháng, quanh năm…
Như chính nhà thơ tâm sự: “Trộm nghĩ xưa nay sách vở dạy nấu ăn rất nhiều mà thầy hay bếp giỏi cũng không ít, những món chay tôi viết trong sách như một chuyện kể của người con xứ Huế ở cái tuổi được bia đề “hưởng thọ” muốn gởi cái tâm của một Phật tử chia sẻ những hiểu biết thô thiển của mình cùng chị em phụ nữ thích nấu nướng chiên xào những món chay ngon lành bổ dưỡng để phụng sự gia đình và xã hội”.
![]() |
Nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh trong Đêm văn nghệ Tình Sông Hương 2012 |
Cái cách sử dụng thành quả thực tế để dành cho xã hội của cuốn sách là một câu chuyện cảm động khác, bao nhiêu tiền nhuận bút thu được từ việc phát hành cuốn sách, nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh đem đi làm từ thiện hết, trong đó có việc sẽ trao 20 triệu đồng học bổng cho học sinh nghèo xứ Huế thông qua Quỹ Tình Sông Hương của Tạp chí Sông Hương. Nữ thi sĩ Huế, nhà ẩm thực Huế Hồ Đắc Thiếu Anh là vậy đó. Nhớ cách đây 2 năm, khi Tạp chí Sông Hương tổ chức Đêm văn nghệ Tình Sông Hương ở Trung tâm Festival, 11 Lê Lợi, Huế nhà thơ cùng với anh Đinh Phong, chị Kim Minh, nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy, nhà thơ Trương Nam Hương, Ban Từ thiện Hội đồng hương Thừa Thiên Huế tại TP HCM đã ủng hộ nhiệt tình, khiến đêm của lòng nhân ái đó thành công ngoài mong đợi.
Cái tình đó, cứ thấy bàng bạc suốt dọc hành trình sống và phụng sự của người con gái Huế xa quê, ngay cả chuyện ẩm thực. Ngoài những dòng thơ hay và đẹp cho đời, chị hiện còn là hội viên chuyên ngành Văn hóa Ẩm thực Liên hiệp Các Hiệp Hội UNESCO Việt Nam, Chủ nhiệm CLB Ẩm thực chay Bếp Vàng, và cũng từng được trao danh hiệu Sứ giả quảng bá Ẩm thực và Bếp Vàng do Hội Kỷ lục Việt Nam trao tặng…
Câu chuyện của nhà thơ chưa dừng lại, những dòng thơ cũng như những dự định mới đầy nhân ái vẫn sẽ đang tiếp tục. Xin chúc chị tiếp tục hành trình với thân tâm thường an lạc…
H.Đ.T.N
(SDB14/09-14)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.