Một cuốn sách quý về ẩm thực trong niềm an lạc

08:27 10/10/2014

HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.

Một cuốn sách mà khi thực hành những chỉ dẫn, chúng ta sẽ thêm một lần trở về với chính mình, trở về với cảm giác rất gần với sự an lạc đang không hề dễ bắt gặp trong cuộc sống hiện tại.

Ở đó, chúng ta sẽ gặp những cách thức làm các món chay, nhưng không chỉ là món chay thông thường, mà là những món chay đã từng được giữ gìn ở Kinh đô Phật giáo Huế - vùng đất có trên 1000 ngôi chùa, hơn thế nữa, trong đó một số món chay đã từng được thi triển công phu tinh xảo qua bàn tay những nghệ nhân trong đội Thượng thiện cung đình Huế xưa cũng được tái hiện lại (Thân phụ của chị xưa là quan Nam triều Bộ Lễ, Bộ Học, Ủy viên phiên dịch sử liệu Việt Nam của Trường Đại học Luật khoa Huế. Hiền mẫu là một nghệ nhân ẩm thực của đất Thần Kinh). Sách hướng dẫn 8 món khai vị tao nhã: Bánh ướt Lạc Việt, Chả cánh phượng - cơm Bồ đề, Cuốn cải xanh, Gỏi rong biển tứ quý…; 19 món ăn chính lừng danh: Canh cải thảo cao lầu, Cà ri xanh, Lẩu củ sen chua cay, Ra gu gấc, Đậu hũ rau răm, Mộc nhĩ chưng tương, Cơm chiên bí đỏ, Cơm hấp lá sen, Xôi lá dừa ngũ vị… Và 5 món tráng miệng thanh lành: Bánh đậu dinh dưỡng, Bánh hoa hồng nướng, Chè hạt sen bọc nhãn, Khoai hấp đường 3 màu, Trái cây nướng mật.

Những món chay đó vừa quen vừa lạ, rất dân dã song cũng rất đỗi cầu kỳ, công phu khi chế biến. Mới xem qua tên món ăn, tưởng như rất khó nấu, nhưng khi đọc hướng dẫn và nhìn hình ảnh, thì những người chưa từng biết ăn chay cũng có thể tự tin hình dung được món ăn mình sẽ nấu.

Cái cách trình bày với hình thức quá đẹp và tao nhã là một thành công của cuốn sách này. Các món ăn đều có những hình ảnh minh họa rất đẹp được trình bày như các tác phẩm nghệ thuật. Nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh kể, chính tay chị nấu từng món, tự trình bày ra đĩa bát rồi nhờ chuyên gia nhiếp ảnh thực hiện. Sự tỉ mỉ, cẩn trọng đan thanh nét tài hoa hiển hiện trên từng hình ảnh, trên từng ngọn rau thơm xanh, từng lát ớt đỏ, từng miếng bí vàng, từng hạt cơm trắng, từng cánh sen hồng… Đó là sự “siêu thơ” của ẩm thực.

Nhưng cuốn sách không chỉ có thế, cái làm nên chữ tình và nét duyên của sách là bên những cách thức làm bếp, còn là những ký ức miên hoài ăm ắp nỗi nhớ về Mẹ. Mỗi món ăn đều có những đoạn ngắn bình về sự hữu ích của món, và hiện lên hình ảnh người mẹ đã từng nấu món ăn đó trong những ngày ấu thơ. Trong “Lời thưa” đầu sách, nhà thơ viết: “Theo lệ thì nhà tôi mỗi năm ngoài mâm cỗ chay đưa rước ông bà, đầu năm còn có thêm bốn, năm cái giỗ mà người Huế thường gọi là kỵ. Với mẹ tôi thì việc chuẩn bị mâm cỗ chay thường tốn công hơn làm cỗ mặn, các nguyên liệu thảo mộc được chế biến công phu và tinh khiết… Những mâm cỗ chay mà mẹ tôi thường gọi là “cỗ lợt” có trên 20 món, mỗi món một chút được bài trí công phu, tinh tấn… Tôi hình dung mỗi món chay là một đóa hoa tâm kết nối giữa người nấu và các đấng thiêng liêng…”. Những ăm ắp nhớ mẹ trải bày trong từng món ăn trong sách, như nhớ mẹ qua từng cái thân chuối, cọng rau: “Nhớ thời nhỏ vườn nhà mình mẹ trồng rất nhiều cây ăn quả, nhất là chuối. Tôi chỉ nhớ là mẹ thường nói ăn chuối rất tốt, ăn chuối bổ máu, ăn chuối tốt cho xương, ăn chuối tốt cho tim mạch… Cho nên hễ lứa chuối này tàn là mẹ lại kịp thời gầy lứa khác, và cũng nhờ thế mà chị em chúng tôi luôn được ăn những món cây nhà lá vườn nhiều chất dinh dưỡng. Độc đáo nhất là khi chuối trổ buồng và chín, thân chuối vẫn sử dụng để chế biến món ăn được. Mẹ chọn mấy bắp chuối sứ trắng bào mỏng, xả sạch mủ rồi nấu canh chua với lá me non làm món giải nhiệt mùa hè…” (trang 25). “Hồi nhỏ em út tôi ít thích ăn rau, mẹ tôi phải ép ăn rau bằng cách cắt nhuyễn rau trộn chung với cơm, em mếu máo, mẹ dỗ “ăn rau nhiều chất xơ, ăn rau mau lớn, con gái ăn rau mát da…”. Cái câu ca ấy ngày nào, bữa ăn nào chúng tôi cũng được nghe đã trở thành thói quen…” (Tr 28). Và sen nữa, làm sao không nhớ: “Mẹ tôi người làng Phú Mộng ở miệt Kim Long xứ Huế, nơi đó ông tôi có một hồ sen khá lớn, so với sen hồ Tịnh Tâm ngon nổi tiếng thì sen Phú Mộng cũng bên tám lạng bên nửa cân. Đến mùa sen nở, sen tàn, tôi thường theo các cậu chèo thuyền khắp hồ để hái hoa, bẻ gương sen…”. Nhiều khi, có những món ẩm thực sáng tạo được khởi nguồn từ sự yêu kính mẹ, như “Xúp dinh dưỡng xanh” là một: “Cơ địa của mẹ rất nhạy cảm với khí trời, nắng không ưa mưa không chịu, thấy thịt cá chưa ăn đã muốn đầy hơi, mới ra nắng chút xíu là da mặt xám xịt… Qua một số tài liệu… đánh giá bông cải xanh không những là món ăn tốt cho sức khỏe mà còn giúp tế bào da ngăn ngừa những tổn hại…, làm chậm quá trình lão hóa. Tôi ngẫm nghĩ nên “biến tấu” một món ăn chay mà nguyên liệu chính là bông cải xanh kết hợp với một số nguyên liệu phụ có đầy đủ tính ôn, trầm, nóng, lạnh…”.

Cứ thế, những “món chay dâng mẹ” cứ thảo hiền từng món, ngọt tình từng thức theo mùa, quanh tháng, quanh năm…

Như chính nhà thơ tâm sự: “Trộm nghĩ xưa nay sách vở dạy nấu ăn rất nhiều mà thầy hay bếp giỏi cũng không ít, những món chay tôi viết trong sách như một chuyện kể của người con xứ Huế ở cái tuổi được bia đề “hưởng thọ” muốn gởi cái tâm của một Phật tử chia sẻ những hiểu biết thô thiển của mình cùng chị em phụ nữ thích nấu nướng chiên xào những món chay ngon lành bổ dưỡng để phụng sự gia đình và xã hội”.

Nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh trong Đêm văn nghệ Tình Sông Hương 2012


Cái cách sử dụng thành quả thực tế để dành cho xã hội của cuốn sách là một câu chuyện cảm động khác, bao nhiêu tiền nhuận bút thu được từ việc phát hành cuốn sách, nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh đem đi làm từ thiện hết, trong đó có việc sẽ trao 20 triệu đồng học bổng cho học sinh nghèo xứ Huế thông qua Quỹ Tình Sông Hương của Tạp chí Sông Hương. Nữ thi sĩ Huế, nhà ẩm thực Huế Hồ Đắc Thiếu Anh là vậy đó. Nhớ cách đây 2 năm, khi Tạp chí Sông Hương tổ chức Đêm văn nghệ Tình Sông Hương ở Trung tâm Festival, 11 Lê Lợi, Huế nhà thơ cùng với anh Đinh Phong, chị Kim Minh, nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy, nhà thơ Trương Nam Hương, Ban Từ thiện Hội đồng hương Thừa Thiên Huế tại TP HCM đã ủng hộ nhiệt tình, khiến đêm của lòng nhân ái đó thành công ngoài mong đợi.

Cái tình đó, cứ thấy bàng bạc suốt dọc hành trình sống và phụng sự của người con gái Huế xa quê, ngay cả chuyện ẩm thực. Ngoài những dòng thơ hay và đẹp cho đời, chị hiện còn là hội viên chuyên ngành Văn hóa Ẩm thực Liên hiệp Các Hiệp Hội UNESCO Việt Nam, Chủ nhiệm CLB Ẩm thực chay Bếp Vàng, và cũng từng được trao danh hiệu Sứ giả quảng bá Ẩm thực và Bếp Vàng do Hội Kỷ lục Việt Nam trao tặng…

Câu chuyện của nhà thơ chưa dừng lại, những dòng thơ cũng như những dự định mới đầy nhân ái vẫn sẽ đang tiếp tục. Xin chúc chị tiếp tục hành trình với thân tâm thường an lạc…

H.Đ.T.N    
(SDB14/09-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...