Một chuyến trở dạ của nàng thơ

14:58 19/09/2014

BỬU Ý

(Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)

Giáo sư Bửu Ý tại buổi giới thiệu sách

LGT: Lần đầu tiên, thơ Tân hình thức Việt được thức nhận khá đầy đủ trong một tập tiểu luận “Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” dày gần 500 trang do Sông Hương phối hợp với Nxb. Thuận Hóa ấn hành. Vừa qua cuốn sách này đã được ra mắt tại Tòa soạn của Tạp chí, thu hút đông đảo sự quan tâm của giới văn sĩ trí thức. Tại buổi giới thiệu sách, học giả Bửu Ý đã có bài phát biểu được nhiều người hưởng ứng, Sông Hương xin giới thiệu bài phát biểu đó ngay trong số này.
Cũng trong nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu về thể loại thơ Tân hình thức mà Sông Hương đã nhận được, từ số này chúng tôi sẽ đăng những tiểu luận tiêu biểu, mong tạo nên một không khí mới trong “tiếp nhận và sáng tạo” trên hành trình thơ Việt.
S.H

   


Nhân dịp ra mắt tập sách này - là một loại sách đặc biệt khó in và khó phát hành - tôi xin đóng góp một vài suy nghĩ với quý vị và các bạn.

1. Người làm thơ bây giờ, khi hạ bút viết câu thơ, có khi chẳng ngờ là họ đang làm thơ, phần nào giống như như Jourdain của Molière, hàng ngày nói năng tự nhiên như nhiên, có ngờ đâu chính mình cũng đang làm văn xuôi giống như bao nhiêu nhà văn nổi tiếng khác.

Cũng giống như đời người trải qua nhiều giai đoạn, hay như dòng sông chảy qua nhiều đoạn khác nhau, vận mệnh của nghệ thuật nào cũng được đánh dấu bằng những thời kỳ khi hưng thịnh khi suy tàn, chuyển động theo một con đường thẳng, hay một con đường gãy khúc, với một số thay đổi từ nội tại hoặc từ ngoài vào.

Có điều là cứ ở mỗi khúc quanh giao thời thường diễn ra những biến cố khiến cho nghệ thuật lẫn người làm nghệ thuật chững lại, lo liệu điều chỉnh tầm ngắm trước khi khẳng định mình.

Ở trời Tây cũng vậy, ở trời ta cũng vậy. Ở Pháp, cuối thế kỷ XVII, nổ ra một cuộc tranh luận nảy lửa giữa phái ái Cựu và phái nghinh Tân, một bên chủ trương lấy cổ văn và tác giả Hy La làm mẫu mực, còn một bên quyết canh tân và đề cao ngôn ngữ thoát thai từ vỏ bọc la tinh. Rồi đến đầu thế kỷ XX, thơ đa đa ra đời thì bị tẩy chay, la ó, cũng giống như người ta tẩy chay đường hướng lập thể của hội họa trong buổi đầu. Ở trời ta, sóng gió không kém. Một số bài thơ siêu thực của nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng bị liệt vào thơ đa đa, tức là loại thơ mà người ta gọi là “thơ hũ nút”, không thể hiểu được. Thơ mới của Tản Đà cũng bị cười cợt và được đề nghị đem lên trời mà bán. Loại thơ mới này, vì là mới và tự tạo ra tự do, nên chi bị một số người đả kích gọi đó là “thơ buông”. Hay là loại “thơ con cóc” (“Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra/ Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó/ Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi”) là một loại thơ tiêu biểu nhằm chế nhạo thơ mới.

Trước năm 1932 (là năm đánh dấu chính thức sự lên ngôi của thơ mới với bài “Tình già” của Phan Khôi) thì cũng đã có hai tác giả nổi tiếng với thơ mới của mình nhưng chính tác giả chẳng quan thiết đến điều này: đó là Tản Đà, đó là Nguyễn Văn Vĩnh với bài thơ dịch “Con ve và con kiến”, dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine.

“Thơ mới” quả là phòng đợi của “Thơ tự do” tiếp theo sau.

2. Nếu như ta tạm sơ kết về vận số của Thơ từ buổi đầu cho đến hôm nay, nếu ta để sang một bên cái gia tài của mẹ vốn dưỡng dục suốt đời cho chúng ta là kho tàng Ca dao vô cùng độc đáo và nếu như ta mạn phép điểm xuyết, một cách nhảy cóc, những khuôn mặt thi sĩ của nền văn học nước nhà, ta có thể kể ra một số tên tuổi, như: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… Tản Đà, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, Quang Dũng… Bùi Giáng…

Đó là những tên tuổi đã làm mới cho thi ca Việt Nam, đã cắm những cái mốc rất quan trọng cho lịch sử thi ca Việt Nam, nhưng đồng thời trong cuộc sống đầy vinh nhục của kiếp người, hình như cũng chính họ đã hứng chịu nhiều nhục hơn là vinh thuở sinh thời.

Thử tưởng tượng nếu văn học sử Việt Nam không có những tên tuổi ấy, ta biết lấy cái gì đây đem ra giới thiệu với thế giới?

3. Cõi Thơ là một cõi không cần chiêu mộ hay trưng tập gì cả nhưng lại là một cõi thường trực một đạo quân mọi thời đều đông đảo.

Thơ là một lục địa đa quốc gia, khi thì trụ tại chỗ, khi thì phiêu dạt và đẩy lùi mọi biên giới quốc gia.

Mỗi lúc ta có thể đặt ra câu hỏi cho chính mình và cho người khác: “Tại sao lục địa Thơ lại đông dân đến như vậy?”

Tạm thời tôi sẽ trả lời như sau đây, trong khi chờ đợi nhiều câu trả lời khác từ mọi người: “Vì Thơ là tự do”. Không có gì tự do hơn Thơ. Không có cõi nào tự do mênh mông, tuyệt đối cho bằng cõi Thơ. Lục địa Thơ xưa nay và mãi mãi về sau có hấp lực vượt bậc đối với mọi lục địa khác.

Người làm thơ tha hồ nuôi trồng chữ nghĩa, đào hang hầm cho chữ nghĩa, sẵn sàng hôn phối những chữ vốn chẳng họ hàng gì với nhau.

Thơ Tân hình thức của ngày hôm nay, một lần nữa, là một chuyến trở dạ của Nàng Thơ. Chuyến trở dạ này cũng không phải xuôi chèo mát mái, nhưng cũng không phải hứng chịu những tiếng la ó xô bồ xua đuổi, bất quá chỉ gây một ít ngỡ ngàng ở hình thức những bài thơ mới này.

Nhìn lại các bài thơ này, ngoài sự thể các dấu chấm câu đều bay biến hết, người đọc nhận thấy rất nhiều câu bị bẻ gãy, chặt khúc ở nhiều đoạn bất ngờ hơn cả. May tiếng Việt là tiếng đơn âm, chỉ có câu là bị chặt gãy, chứ không có chữ bị bẻ đôi. Mọi nhạc tính, nhạc điệu, tiết nhịp đồng loạt bị xóa đi làm lại, câu trở nên xộc xệch, khúc khắc. “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”… “Đường thế đồ gót rổ khi khu”… Chẳng khác nào thơ và nhạc cùng nắm tay nhau lội suối trèo non trên những lối đi của thời đại.

Nhưng tất cả những điều vừa nói đó chỉ mới chạm vào hình thức của loại thơ mới này mà thôi. Còn nội dung của nó cũng phải nói đến. Chuyến trở dạ này đang lâm vào một giai đoạn đầy rẫy khó khăn - không khó khăn sao được trong khi bao nhiêu chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, trại tập trung, phòng hơi ngạt, bom lửa, chất độc da cam, B52, ly hương, tù tội, El Nino… đang đổ ập lên đầu người? - đến nỗi có khi thơ được thành hình từ mắt bão, từ rốn biển từ địa tầng thăm thẳm…

Cho nên chi nếu Nàng Thơ hôm nay có đánh mất lụa là, du dương, đằm thắm… thì ta cũng ngậm bồ hòn làm ngọt.

Ngắm nghía lại cái tên khai sinh cho đứa con Thơ: “Thơ Tân hình thức”, ta cảm thấy có chỗ chưa thỏa lòng vì nó chỉ phơn phớt mặt ngoài. Những cái tên trước đây đặt ra cho Thơ qua các thời kỳ: cổ điển, lãng mạn, tượng trưng, thi sơn, siêu thực… đều có chạm tới ruột gan của Thơ và cũng có thể, nhờ vào đó, đóng góp phần nào vào tuổi thọ của Thơ.

4. Khi tôi viết lên giấy mấy chữ mộc mạc: đàn tranh là tôi gọi cây đàn tranh đang có mặt trước mắt tôi. Nó được lồng vào một khung kính thật đẹp, đính vào tường. Gọi tên nó, tôi nghe ra âm thanh lảnh lót của nó trong không khí. Bây giờ nó đứng tách riêng một mình, không như thường ngày chen vai cùng bao nhiêu cây đàn chị em với nó: tỳ, nhị, nguyệt, bầu… Nó sẵn lòng tung hứng một giọng ca ngất ngưởng của một nghệ nhân 88 tuổi đã được “hóa thạch sống” là Minh Mẫn. Nó nhắc nhở cho tôi làn điệu Nam Bình với bản “Nước non ngàn dặm ra đi” thắm đẫm tình tự quê hương, nó nhắc nhở cho tôi làn điệu Tứ Đại Cảnh với bản “Thu cảm” thật bất hủ. Đó là chưa nói tới chủ nhân của cây đàn nay đã không còn nữa, nay đã khiến hiện tại của tôi đong đầy trầm hương quá khứ. Đúng là quá khứ đã len lỏi vào hiện tại, làm cho hiện tại cồm cộm, banh rộng hiện tại, kéo dài hiện tại, tưởng chừng hiện tại thay vì chớp nhoáng, mỏng manh, hóa ra triền miên, dằng dặc. Và như vậy hiển nhiên hiện tại không còn nguyên khối là hiện tại. Nhìn ngắm lại, cây đàn tranh, ở phút này, ở nơi này, thật là quan trọng đối với tôi. Chẳng cần gì nhiều, nó có mặt là một điều thật lớn lao. Đâu cần nó lọt vào một bàn tay nào, đâu cần nó ngân nga một âm thanh nào. Vậy mà tôi có tất cả, tôi có đủ mọi thứ. Thậm chí, một lần này không mà thôi đã đủ cho tôi rồi. Thậm chí, tưởng như không cần có nó trong quá khứ, không cần có nó trong tương lai. Một lần này không mà thôi đã đủ cho tôi rồi. Và lần này đối với tôi là duy nhất. Và sẽ không có cái gì truất phế nó được. Tuy nhiên, tôi chỉ sợ rằng nếu tôi chỉ nói “đàn tranh” mà không viết “đàn tranh”, âm thanh của tôi sẽ trôi tuột, bay vèo. Viết “đàn tranh”, chữ này sẽ là cái đinh đóng vào thời gian, đánh dấu một khoảnh khắc và chỉ có một mà thôi. Tôi viết trên giấy: “đàn tranh”, nhưng trong lòng lại là: “đàn tranh ơi”. Và khoảnh khắc trở thành vĩnh viễn. Cái thoắt có thoắt không dự phần tôn vinh sát na của sống còn.

***

Viết để ký ức khỏi chết chìm.

Nối đuôi nhau từng khoảnh khắc, xâu chuỗi nhau các khoảnh khắc, ta có… một dòng sông Hương đang chảy chuyền - có ai ngờ không? - từng giọt Bãng Lãng với từng giọt Tư Hiền…

B.Y
(SH307/09-14)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.

  • Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.