Một cách nhìn mới về văn hóa Việt Nam

10:45 30/10/2009
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.


Nhìn lại thế kỷ 20, thử hỏi có cuộc cách mạng văn hóa nào lớn hơn cuộc cách mạng pop-art thời kỳ thập kỷ 60 và 70. Thực chất, cuộc cách mạng ấy không phải quan trọng vì nó mang lại một loại hình nghệ thuật mới mà nó vĩ đại bởi vì nó đã làm thay đổi hoàn toàn thế giới quan của đại chúng đối với nghệ thuật. Nó được đặt lên một vị trí xứng đáng như vậy bởi vì căn bản nó đã xây dựng được một hệ thống văn hóa đại chúng với nhiều giá trị thực tiễn hơn. Nếu như trước kia, văn hóa là một khái niệm dành riêng cho giới quý tộc và chỉ có một mục đích chính là phản ánh sự tiến bộ, sự dịch chuyển về phần hồn của một triều đại, một đế chế, một chế độ... nào đó thì giờ đây, nó còn một mục đích lớn lao hơn là phục vụ cái nhìn nhu cầu tâm lý của cả xã hội. văn hóa hiện đại tôn trọng người thưởng thức bất kể người đó ở tầng lớp nào, trình độ nào. cái tên Pop-art đã nảy sinh từ những yếu điểm đó.


Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của loài người, ta đã từng được chứng kiến hiện tượng phủ nhận các tư tưởng cách tân. Pop-art không nằm ngoài phạm vi này. Cho đến nay, vẫn còn đâu đó những ý kiến bài xích nó mà chủ yếu từ được dùng nhiều nhất là: thương mại hay nói rõ hơn là thương mại hóa văn hóa. Thế nhưng, mặc tất cả, Pop-art vẫn sống, vẫn phát triển mạnh và sau 30 năm nó đã tự chứng minh được rằng nó thể hiện một hình thái văn minh mới cho xã hội. nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận văn hóa bác học hay là coi văn hóa bác học là hủ lậu. Thực chất, chính Pop-art đã nâng văn hóa (theo khái niệm cũ) lên một tầm cao mới và cũng chính văn hóa bác học ra đời từ nguồn gốc văn hóa dân gian truyền thống. Xét tổng thể, có thể thấy văn hóa  đại chúng chính là sự trở lại của văn hóa dân gian nhưng ở một mức độ tiến bộ hơn (mà nguyên nhân chính là do các cuộc Cách mạng Khoa học Kỹ thuật). Từ đó, ta có thể rút ra rằng loài người phát triển theo hình thái vòng lặp xoáy trôn ốc và không có điểm tới hạn.

Sau thời kỳ bùng nổ (khoảng cuối thập kỷ 70), các nước phương Tây đã xây dựng vững chắc nền văn hóa đại chúng của mình. Công cụ để họ làm được điều đó chính là luật pháp cùng với một nguồn đầu tư dồi dào và nghiêm túc. Họ đã khéo léo tìm được sợi dây móc nối giữa kinh tế và văn hóa, sợi dây dẫn họ tới một bực thang mới tiến bộ hơn phần còn lại của thế giới. Hai yếu tố cơ bản trên đã tương hỗ với nhau khá mạnh mẽ và góp phần mang lại những kết quả tốt đẹp. Cụ thể, chỉ 40 năm trước đây thôi, nào có ai nghĩ rằng sẽ có một ngày 70% dân số thế giới mặc quần jeans và 100% coi nó là một thứ trang phục bình thường. Thế mà giờ đây, nó đã quá quen thuộc, thoải mái diễu trên phố ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Cội nguồn của sự thay đổi này nảy sinh ở Hoa Kỳ, Anh... từ những năm 70 khi mà các thần tượng Pop-art của giới trẻ mặc jeans, thứ đồ dành cho dân đào vàng những năm đầu thế kỷ, như một sự phản kháng lại cái quần là li cổ lỗ sĩ. Từ đó, các nhà tư bản vào cuộc và kết quả thì khỏi phải bàn.

Trong xu hướng quốc tế như vậy, ở Việt Nam họat động văn hóa vẫn chỉ xoay quanh mục tiêu chính yếu là gìn giữ bản sắc dân tộc. Thực chất, văn hóa đại chúng đã tồn tại kéo dài nhưng giờ đây việc nâng cấp nó thành một hệ thống "công nghiệp" vẫn chỉ là manh mún. Đó là hệ quả của những điều kiện môi trường pháp lý và ý thức hệ bảo thủ. Ý thức hệ bảo thủ này cho rằng sự công nghiệp hóa văn hóa chỉ làm tổn hại nền văn hóa nước nhà mà không nhận thức được rằng nó chính là yếu tố tiên quyết để góp phần đại chúng hóa văn hóa, nói cao siêu hơn là để nâng cao văn hóa trong dân chúng. Họ thẳng thừng từ chối các yếu tố kinh tế trong văn hóa (các nhà văn hóa) hoặc lẩn tránh mục tiêu kinh tế phục vụ văn hóa (các nhà kinh tế). Có thể thấy rõ nhất điều đó qua việc xây dựng khu công nghiệp Dung Quất. Các nhà kinh tế cho rằng đó là quyết định phi kinh tế vì địa điểm này quá xa nguồn nhiên liệu, vật liệu (Vũng Tàu) dẫn tới tốn kém chi phí. Thực chất, các quan niệm lỗi thời trên không nhận thấy đây là một quyết định tiến bộ của Chính phủ. Mục tiêu kinh tế của Dung Quất không phải là hàng đầu mà thực chất chính phủ muốn dùng dự án này để "thổi" vào khu vực miền Trung vốn buồn và tĩnh lặng kia một chút không khí náo nhiệt của sự phát triển, cái mà khúc ruột đất nước vẫn thiếu từ trước tới nay. Nhìn nhận trên đúng đắn ở chỗ đã vạch ra được cái khổ của dân chúng không chỉ có vật chất mà còn là cái khổ tinh thần. Hơn nữa, miền Trung đã có nhiều đóng góp với cuộc kháng chiến thì "sự trả ơn" âu cũng là một thái độ có văn hóa. Từ đó, ta rút ra một vấn đề lớn là đã lâu, các hoạt động kinh tế của Việt Nam vẫn chưa phục vụ mục đích văn hóa. Vậy thì, hỡi các nhà kinh tế, đừng nhìn vào mỗi doanh thu mà thôi, hãy nhìn vào cả lợi ích văn hóa, cái lợi ích mà có thể ta không được hưởng nhưng con cháu của chúng ta thì không thể thiếu nó trong cuộc sống tương lai.

Vấn đề thứ hai có phần nổi trội hơn. Đó là công nghiệp hóa văn hóa, nói khác hơn là "xã hội" văn hóa (một từ ta vẫn hay dùng). Thực ra, xã hội hóa chính là đại chúng hóa nhưng muốn đại chúng hóa thì trước tiên văn hóa phải được công nghiệp hóa. Đây chính là mục tiêu mà nhiều nhà văn hóa bảo thủ vẫn tấn công vào với khái niệm chủ quan khăng khăng cho rằng: "xã hội hóa tất liên quan tới thương mại hóa mà đã thương mại hóa thì văn hóa sẽ bị tổn thương, sẽ xô bồ...". Nhầm. Rõ ràng đây là một ý kiến nhầm hoàn toàn. Chính việc xã hội hóa sẽ tách bạch văn hóa cao cấp (bác học) với văn hóa đại chúng và tách bạch giữa văn hóa với thương mại một cách phân minh hơn. Không chỉ có vậy, chính việc công nghiệp hóa sẽ tạo điều kiện cho văn hóa có đất phát triển. Ví dụ đơn cử là công nghiệp hóa giáo dục. Hiện nay, ngân sách Nhà nước không thể tài trợ đầy đủ cho tất cả các trường học trên toàn lãnh thổ quốc gia. Thế nhưng nhu cầu đi học và quyền được học lại là một thực tế không thể bị phủ nhận. Vậy thì cổ phần hóa các trường học sẽ tạo điều kiện cho ngân sách giáo dục đối với các trường công trở nên rộng rãi hơn. Khi đó, các trường học tư thục (vì kèm thêm mục tiêu kinh doanh) sẽ có học phí cao và thu hút các học sinh con nhà khá giả. Phần còn lại, các trường công (do được cấp ngân sách nhiều hơn) sẽ phục vụ các học sinh nghèo, thuộc diện chính sách với học phí cực thấp hoặc miễn phí. Tuy vậy, để làm được việc này, cần có sự quan tâm của Nhà nước, sự dũng cảm của các nhà giáo dục và quan trọng hơn là các cơ quan phải chấp nhận các nhân viên tốt nghiệp trường tư thục để tạo niềm tin cho các học viên. Biện pháp này cũng có thể áp dụng được với ngành y tế hay một số ngành tương tự...

Đối với nghệ thuật hay thể thao, chắc chắn phải công nghiệp hóa càng sớm càng tốt. Đừng nghĩ đó là thương mại hóa các nghệ sĩ, các vận động viên mà đó là sự tôn trọng họ đúng như những gì họ có. Thực ra, một nghệ sĩ khi sáng tác ra một tác phẩm, chẳng hạn như một ca khúc, luôn luôn muốn nó được hát, được mọi người nhớ tới. Nhưng nếu hát để giải trí thì không sao nhưng đã hát để kinh doanh (biểu diễn, phát hành băng đĩa...) thì phải trả tiền cho nghệ sĩ đó theo thỏa thuận. Vậy là ở môi trường nghệ thuật, ca khúc đó là một tác phẩm nghệ thuật còn ở môi trường kinh doanh nó sẽ là một sản phẩm giống như bất kỳ sản phẩm nào khác trên thị trường.

Muốn giải quyết được rắc rối này, cơ bản cần có 2 yếu tố. Yếu  tố thứ nhất: Phải hoàn thiện luật pháp (luật bản quyền, luật chuyển nhượng...). Yếu tố thứ 2: Tự các nghệ sĩ, vận động viên phải có thái độ nghiêm túc với nghề. Không thể có chuyện với một ca khúc hàng chục ca sĩ cùng hát theo đủ kiểu khác nhau hoặc một vận động viên vừa là vận động viên thể thao vừa là cán bộ, viên chức một ngành nào đó. Nên nhớ, ở phương Tây, một ca sĩ bao giờ cũng hát những gì mình sáng tác hoặc đặt riêng một người sáng tác cho mình.

Nói chung giữa kinh tế và văn hóa luôn có ràng buộc. Nếu đặt kinh tế vào văn hóa và nhìn bằng con mắt khoa học hơn ta sẽ xây dựng được cho mình nền văn hóa đại chúng phát triển, một điều kiện tiên quyết để hòa nhập với sự vận động hàng ngày của thế giới văn minh bên ngoài nhằm theo kịp cái thế giới văn minh đó. Hãy nhớ rằng, sự lạc hậu văn hóa bao giờ cũng mang lại cho một dân tộc sự lụi tàn đáng sợ. Xây dựng được tư tưởng cách tân đã là một tiến bộ rồi nhưng chấp nhận nó thì sẽ là tiến bộ hơn nữa.

H.Q.M
(129/11-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.