Một bài thơ bay xa

15:34 12/10/2009
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

Nhà văn - cán bộ lão thành Nguyễn Khoa Bội Lan - Ảnh: antgct.cand.com.vn

Cán bộ, chiến sĩ ở quân khu cũng như ở các huyện nhanh chóng cùng nhân dân sửa sang lại chùa chiền, trường học, bệnh xá và những nhà sàn của dân bị thời tiết làm hư hỏng, đồng thời cũng cùng với nhân dân chuẩn bị chống càn. Thấy việc đi lại đã dễ dàng, địch ở đồn Mường Mày, Bắc Xoàn do những tên thực dân Pháp chỉ huy sục vào các khu ven rừng tìm các kho lúa, gạo của dân cất giấu, sục vào các làng để bắt bò, heo, gà, vịt. Nhưng đi đến đâu chúng cũng bị dân, quân đánh tơi bời vội vã rút về hang ổ kêu cứu bọn chỉ huy tối cao. Máy bay địch từ Viên Chăn kéo đến Hạ Lào bắn phá và ném bom. Cuộc sống và chiến đấu ở Lào những năm 50 là như vậy đó: mưa lạnh đã khó khăn, nắng ráo cũng không dễ dàng. Thế rồi tết đến các đồng chí ở quân khu quyết định phải tổ chức cho bộ đội những ngày tết chu đáo, vui vẻ bù đắp lại những ngày gian khổ vừa qua.

Nhiều tổ hậu cần đã đi về nhiều thôn xóm mua sắm lương thực, thực  phẩm. Bà con ở nhiều nơi biết bộ đội sắp ăn tết đã mang gạo, nếp, gà, vịt và rượu cần đến góp phần. Một tổ thiện xạ ở cao nguyên Bô Lô Ven cho gánh về hai chú nai vàng hãy còn ngơ ngác. Các bà mẹ hẹn giờ giao thừa sẽ đến làm lễ phục khẻng cột kỹ vào tay để chúc phúc cho mọi người, nam nữ thanh niên sẵn sàng múa lam vông với bộ đội cho tới sáng. Có 5, 6 ông đầu tóc bạc phơ không biết từ đâu hợp thành một nhóm về làm khách quý của hòa thượng chùa Hin Lạp để ăn tết với bộ đội. Các cụ dọa: giờ giao thừa sẽ bắt các ông lớn uống một thứ rượu do các cụ mang về, uống một ly nhỏ thôi cũng say không thấy trời đất.

Trong khi chờ đợi giờ giao thừa, một số khá đông cán bộ, chiến sĩ Lào, Việt họp tại một góc rừng đốt lửa, nướng sắn để khai vị. Hơi ấm của lửa tạo ra làm ấm thêm tấm lòng Lào Việt và mọi người lại nhắc nhau nhớ mãi câu nói của Bác Hồ:

“Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long”

Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện, nhắc chuyện xưa để mà nhớ mãi, nêu những việc hiện tại để còn lo âu.

Đang vui tiệc bỗng nhiên anh PhunXiPaXệt khu trưởng khu Hạ Lào cười nói với tôi: “Xin phỏng vấn nhà báo, tại sao chị rời bỏ cố đô hoa lệ Huế đến đây ở trong rừng với chúng tôi, nướng sắn để ăn tết với chúng tôi?”.

Vì sao tình nguyện quân Việt Nam có mặt tại Lào, điều đó không những cán bộ chiến sĩ mà nhân dân Lào ở các vùng kháng chiến đều biết rõ. Bây giờ đem ra nói lại cũng kể quá thừa. Tôi liền nghĩ cách trả lời ngắn gọn.

Tôi nói: Có lẽ vì lúc còn đi học tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc của một bài thơ của cụ Phan Bội Châu làm trong một đêm giao thừa khi cụ còn bị thực dân Pháp giam lỏng tại Huế.

DẬY ! DẬY ! DẬY!
Bên áng một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng

Sau khi nêu lên tủi nhục, đau khổ của một người dân mất nước, bài thơ kêu gọi:

Thưa các cô, các cậu lại các anh
Trời đã mới, người càng thêm đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Ghé vai vào xốc vác cựu giang sơn
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành nghiệp mới
Ai hữu chí từ đây xin gắng gỏi
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...

Bài thơ làm ở Việt Nam đã lâu bây giờ đem ra đọc tại Lào vẫn gây xúc động cho người nghe. Một anh bộ đội Lào ngồi bên cạnh nói với tôi: “Ngày mai chị nhớ ghi bài thơ vào sổ tay cho em với. Em cho rằng bài thơ ấy không những kêu gọi người Việt Nam mà cả những người bị làm nô lệ trong đó có cả nhân dân Lào“. Tôi hỏi người bạn trẻ: “Thế thì Chăm Niên (tên cậu ta) có dự định tiếp tục chiến đấu đáp ứng lời kêu gọi của bài thơ không?”.

Chăm Niên trả lời: “Em không biết chúng em có làm được việc gì ra trò  không nhưng mà chiến đấu thì nhất định chiến đấu đến cùng và em nghĩ các anh chị cũng vậy thôi“. Thế là một số khá đông chiến sĩ Lào - Việt ngồi gần đó xiết chặt tay nhau như ký vào một bản giao ước.

Chăm Niên là một cán bộ của đại đội PaThét Lào ở Hạ Lào, trẻ, khỏe, năng nổ và dũng cảm. Chăm Niên được ban chỉ huy tin cậy, bạn bè và nhân dân thương yêu. Những lần về họp ở quân khu hễ rảnh rỗi thì kéo theo vài người bạn đến cơ quan báo chí nơi chúng tôi làm việc lặng lẽ ngồi nghe đài, đọc báo. Tưởng rằng nhà báo thì biết nhiều chuyện cho nên mỗi lần thấy chúng tôi rảnh rỗi thì hỏi đủ thứ, địa lý, lịch sử của một số nước trên thế giới và rất thích thú khi nghe kể cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc chiến đấu oanh liệt của Liên Xô chống phát xít Đức. Vì thế chúng tôi chơi với nhau rất thân.

Năm tháng này qua, năm tháng khác lại qua, do sự nỗ lực của Đảng bộ địa phương, có sự giúp đỡ của Việt Nam, được sự giúp đỡ tận tình của tình nguyện quân, cuộc kháng chiến của Hạ Lào nhanh chóng vững mạnh. Chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam cũng đã ảnh hưởng lớn đến Lào. Thế rồi hiệp định Giơnevơ về Việt Nam đã được ký kết. Tình nguyện quân Việt Nam đã về nước.

Sau một thời gian ở quân đội tôi đã trở về ngành báo chí ở Hà Nội. Một hôm tôi vào bệnh viện Việt Xô hữu nghị, khám bệnh xong tôi đến phòng dược để nhận thuốc. Hôm nay ở đây có đông người ngồi chờ, thấy bệnh nhân đợi lâu, đồng chí dược sĩ bước ra nói: “Xin anh chị em mình chịu khó vì cả phòng phải soạn thuốc cho các bạn Lào đang trên đường về nước”. Nghe nói thế tôi nhìn quanh thì thấy bốn sĩ quan quân đội nhân dân Lào đang ngồi gần cửa sổ. Tôi bước đến định hỏi chuyện. Vừa thấy tôi một anh kêu lớn: “Chị! anh ta đứng lên ôm chặt hai vai tôi hỏi chị có nhớ em không?”. Thấy vẻ hơi ngơ ngác của tôi, anh ta nói: “Em là Chăm Niên đây chị nhớ không?“. Tôi mừng rỡ: ”Chăm Niên thì tôi quên sao được, nhưng đột ngột gặp lại nên tôi chưa nhận ra đó thôi, và bây giờ thì xin nói: tôi rất vui vì gặp lại người bạn thân, rất vui được gặp người chỉ huy anh hùng của tiểu đoàn II anh hùng”.

“Sao chị biết?”, Chăm Niên hỏi.

Tôi trả lời: “Biết quá đi chứ, Chăm Niên quên tôi là nhà báo rồi ư?. Là nhà báo tôi thường xuyên theo dõi tình hình, trong đó có tình hình nước Lào, nơi mà tôi xem như quê hương thứ hai của tôi”. Tôi biết sau hiệp định Giơneve, một số đông cán bộ và chiến sĩ Hạ Lào đã tập kết lên hai tỉnh của Thượng Lào trước sự phản bội của thực dân Pháp và sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ, Cách mạng Lào đã gặp rất nhiều khó khăn. Tôi biết tiểu đoàn II đã phá vòng vây của địch tiếp tục chiến đấu gian khổ nhưng cũng thu được nhiều thành tích vẻ vang. Chấp hành mệnh lệnh của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tiểu đoàn II đã cho cán bộ vào tận Viên Chăn, dũng cảm, mưu trí vào tận “hang cọp“ đưa một số cán bộ lãnh đạo Cách mạng trong đó có Chủ tịch XuPhaNuVông, phó chủ tịch CòmManĐan, anh PhunXiPaXệt...ra khỏi hoả ngục Phong Kheng, ra khỏi Viên Chăn và đưa về khu an toàn. Chăm Niên thấy đấy, bà con Việt Nam theo dõi chặt chẽ tình hình của nước bạn.

Chăm Niên đứng lặng hồi lâu, và sau khi giới thiệu với tôi các bạn cùng đi hầu hết là ở trong ban chỉ huy của tiểu đoàn II; rồi nói: “Chị cũng nên biết rằng tất cả chúng em đều nhớ bài thơ mà chúng em đọc hôm tết. Hiện nay em đang bị ốm có lẽ sẽ về Hà Nội chữa bệnh ít lâu, bao giờ em về em sẽ tìm chị ngay và sẽ kể cho chị nghe những gì đã xảy ra sau khi chị về nước”.

Tôi tiễn các bạn Lào ra tận xe, một anh nói nhỏ với tôi: “Chăm Niên bị đau gan nặng lắm”.

Tôi nhìn Chăm Niên cũng đang đi bên cạnh tôi gầy gò, nước da xạm đen, chưa bao nhiêu tuổi mà đầu tóc đã lốm đốm bạc, nghẹn ngào không nói được câu nào. Xiết chặt tay Chăm Niên trước khi cậu ta bước lên xe tôi không sao cầm được nước mắt.

Chờ lâu, chờ rất lâu không thấy Chăm Niên trở lại Hà Nội như đã hẹn, tôi lên ban đối ngoại của Đảng để hỏi tình hình và được biết Chăm Niên đã vĩnh viễn ra đi, và XiThon, ThaoTu tiếp tục chỉ huy tiểu đoàn II giữ vững danh hiệu anh hùng cho đơn vị và làm cho đơn vị luôn luôn là đơn vị tin cậy của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Sau này tôi được biết thêm trong cuộc chiến đấu ác liệt cuối cùng có sự tích cực góp phần của tiểu đoàn II, quân dân Lào đã đuổi hẳn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng ra khỏi Lào. Trong các cuộc chiến đấu ác liệt đó XiThon và ThaoTu cũng đã đem máu nóng của mình góp phần phá tan xích xiềng nô lệ, góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng nước Lào vinh quang như ngày hôm nay.

N.K.B.L
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.