Một bài thơ bay xa

15:34 12/10/2009
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

Nhà văn - cán bộ lão thành Nguyễn Khoa Bội Lan - Ảnh: antgct.cand.com.vn

Cán bộ, chiến sĩ ở quân khu cũng như ở các huyện nhanh chóng cùng nhân dân sửa sang lại chùa chiền, trường học, bệnh xá và những nhà sàn của dân bị thời tiết làm hư hỏng, đồng thời cũng cùng với nhân dân chuẩn bị chống càn. Thấy việc đi lại đã dễ dàng, địch ở đồn Mường Mày, Bắc Xoàn do những tên thực dân Pháp chỉ huy sục vào các khu ven rừng tìm các kho lúa, gạo của dân cất giấu, sục vào các làng để bắt bò, heo, gà, vịt. Nhưng đi đến đâu chúng cũng bị dân, quân đánh tơi bời vội vã rút về hang ổ kêu cứu bọn chỉ huy tối cao. Máy bay địch từ Viên Chăn kéo đến Hạ Lào bắn phá và ném bom. Cuộc sống và chiến đấu ở Lào những năm 50 là như vậy đó: mưa lạnh đã khó khăn, nắng ráo cũng không dễ dàng. Thế rồi tết đến các đồng chí ở quân khu quyết định phải tổ chức cho bộ đội những ngày tết chu đáo, vui vẻ bù đắp lại những ngày gian khổ vừa qua.

Nhiều tổ hậu cần đã đi về nhiều thôn xóm mua sắm lương thực, thực  phẩm. Bà con ở nhiều nơi biết bộ đội sắp ăn tết đã mang gạo, nếp, gà, vịt và rượu cần đến góp phần. Một tổ thiện xạ ở cao nguyên Bô Lô Ven cho gánh về hai chú nai vàng hãy còn ngơ ngác. Các bà mẹ hẹn giờ giao thừa sẽ đến làm lễ phục khẻng cột kỹ vào tay để chúc phúc cho mọi người, nam nữ thanh niên sẵn sàng múa lam vông với bộ đội cho tới sáng. Có 5, 6 ông đầu tóc bạc phơ không biết từ đâu hợp thành một nhóm về làm khách quý của hòa thượng chùa Hin Lạp để ăn tết với bộ đội. Các cụ dọa: giờ giao thừa sẽ bắt các ông lớn uống một thứ rượu do các cụ mang về, uống một ly nhỏ thôi cũng say không thấy trời đất.

Trong khi chờ đợi giờ giao thừa, một số khá đông cán bộ, chiến sĩ Lào, Việt họp tại một góc rừng đốt lửa, nướng sắn để khai vị. Hơi ấm của lửa tạo ra làm ấm thêm tấm lòng Lào Việt và mọi người lại nhắc nhau nhớ mãi câu nói của Bác Hồ:

“Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long”

Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện, nhắc chuyện xưa để mà nhớ mãi, nêu những việc hiện tại để còn lo âu.

Đang vui tiệc bỗng nhiên anh PhunXiPaXệt khu trưởng khu Hạ Lào cười nói với tôi: “Xin phỏng vấn nhà báo, tại sao chị rời bỏ cố đô hoa lệ Huế đến đây ở trong rừng với chúng tôi, nướng sắn để ăn tết với chúng tôi?”.

Vì sao tình nguyện quân Việt Nam có mặt tại Lào, điều đó không những cán bộ chiến sĩ mà nhân dân Lào ở các vùng kháng chiến đều biết rõ. Bây giờ đem ra nói lại cũng kể quá thừa. Tôi liền nghĩ cách trả lời ngắn gọn.

Tôi nói: Có lẽ vì lúc còn đi học tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc của một bài thơ của cụ Phan Bội Châu làm trong một đêm giao thừa khi cụ còn bị thực dân Pháp giam lỏng tại Huế.

DẬY ! DẬY ! DẬY!
Bên áng một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng

Sau khi nêu lên tủi nhục, đau khổ của một người dân mất nước, bài thơ kêu gọi:

Thưa các cô, các cậu lại các anh
Trời đã mới, người càng thêm đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Ghé vai vào xốc vác cựu giang sơn
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành nghiệp mới
Ai hữu chí từ đây xin gắng gỏi
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...

Bài thơ làm ở Việt Nam đã lâu bây giờ đem ra đọc tại Lào vẫn gây xúc động cho người nghe. Một anh bộ đội Lào ngồi bên cạnh nói với tôi: “Ngày mai chị nhớ ghi bài thơ vào sổ tay cho em với. Em cho rằng bài thơ ấy không những kêu gọi người Việt Nam mà cả những người bị làm nô lệ trong đó có cả nhân dân Lào“. Tôi hỏi người bạn trẻ: “Thế thì Chăm Niên (tên cậu ta) có dự định tiếp tục chiến đấu đáp ứng lời kêu gọi của bài thơ không?”.

Chăm Niên trả lời: “Em không biết chúng em có làm được việc gì ra trò  không nhưng mà chiến đấu thì nhất định chiến đấu đến cùng và em nghĩ các anh chị cũng vậy thôi“. Thế là một số khá đông chiến sĩ Lào - Việt ngồi gần đó xiết chặt tay nhau như ký vào một bản giao ước.

Chăm Niên là một cán bộ của đại đội PaThét Lào ở Hạ Lào, trẻ, khỏe, năng nổ và dũng cảm. Chăm Niên được ban chỉ huy tin cậy, bạn bè và nhân dân thương yêu. Những lần về họp ở quân khu hễ rảnh rỗi thì kéo theo vài người bạn đến cơ quan báo chí nơi chúng tôi làm việc lặng lẽ ngồi nghe đài, đọc báo. Tưởng rằng nhà báo thì biết nhiều chuyện cho nên mỗi lần thấy chúng tôi rảnh rỗi thì hỏi đủ thứ, địa lý, lịch sử của một số nước trên thế giới và rất thích thú khi nghe kể cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc chiến đấu oanh liệt của Liên Xô chống phát xít Đức. Vì thế chúng tôi chơi với nhau rất thân.

Năm tháng này qua, năm tháng khác lại qua, do sự nỗ lực của Đảng bộ địa phương, có sự giúp đỡ của Việt Nam, được sự giúp đỡ tận tình của tình nguyện quân, cuộc kháng chiến của Hạ Lào nhanh chóng vững mạnh. Chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam cũng đã ảnh hưởng lớn đến Lào. Thế rồi hiệp định Giơnevơ về Việt Nam đã được ký kết. Tình nguyện quân Việt Nam đã về nước.

Sau một thời gian ở quân đội tôi đã trở về ngành báo chí ở Hà Nội. Một hôm tôi vào bệnh viện Việt Xô hữu nghị, khám bệnh xong tôi đến phòng dược để nhận thuốc. Hôm nay ở đây có đông người ngồi chờ, thấy bệnh nhân đợi lâu, đồng chí dược sĩ bước ra nói: “Xin anh chị em mình chịu khó vì cả phòng phải soạn thuốc cho các bạn Lào đang trên đường về nước”. Nghe nói thế tôi nhìn quanh thì thấy bốn sĩ quan quân đội nhân dân Lào đang ngồi gần cửa sổ. Tôi bước đến định hỏi chuyện. Vừa thấy tôi một anh kêu lớn: “Chị! anh ta đứng lên ôm chặt hai vai tôi hỏi chị có nhớ em không?”. Thấy vẻ hơi ngơ ngác của tôi, anh ta nói: “Em là Chăm Niên đây chị nhớ không?“. Tôi mừng rỡ: ”Chăm Niên thì tôi quên sao được, nhưng đột ngột gặp lại nên tôi chưa nhận ra đó thôi, và bây giờ thì xin nói: tôi rất vui vì gặp lại người bạn thân, rất vui được gặp người chỉ huy anh hùng của tiểu đoàn II anh hùng”.

“Sao chị biết?”, Chăm Niên hỏi.

Tôi trả lời: “Biết quá đi chứ, Chăm Niên quên tôi là nhà báo rồi ư?. Là nhà báo tôi thường xuyên theo dõi tình hình, trong đó có tình hình nước Lào, nơi mà tôi xem như quê hương thứ hai của tôi”. Tôi biết sau hiệp định Giơneve, một số đông cán bộ và chiến sĩ Hạ Lào đã tập kết lên hai tỉnh của Thượng Lào trước sự phản bội của thực dân Pháp và sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ, Cách mạng Lào đã gặp rất nhiều khó khăn. Tôi biết tiểu đoàn II đã phá vòng vây của địch tiếp tục chiến đấu gian khổ nhưng cũng thu được nhiều thành tích vẻ vang. Chấp hành mệnh lệnh của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tiểu đoàn II đã cho cán bộ vào tận Viên Chăn, dũng cảm, mưu trí vào tận “hang cọp“ đưa một số cán bộ lãnh đạo Cách mạng trong đó có Chủ tịch XuPhaNuVông, phó chủ tịch CòmManĐan, anh PhunXiPaXệt...ra khỏi hoả ngục Phong Kheng, ra khỏi Viên Chăn và đưa về khu an toàn. Chăm Niên thấy đấy, bà con Việt Nam theo dõi chặt chẽ tình hình của nước bạn.

Chăm Niên đứng lặng hồi lâu, và sau khi giới thiệu với tôi các bạn cùng đi hầu hết là ở trong ban chỉ huy của tiểu đoàn II; rồi nói: “Chị cũng nên biết rằng tất cả chúng em đều nhớ bài thơ mà chúng em đọc hôm tết. Hiện nay em đang bị ốm có lẽ sẽ về Hà Nội chữa bệnh ít lâu, bao giờ em về em sẽ tìm chị ngay và sẽ kể cho chị nghe những gì đã xảy ra sau khi chị về nước”.

Tôi tiễn các bạn Lào ra tận xe, một anh nói nhỏ với tôi: “Chăm Niên bị đau gan nặng lắm”.

Tôi nhìn Chăm Niên cũng đang đi bên cạnh tôi gầy gò, nước da xạm đen, chưa bao nhiêu tuổi mà đầu tóc đã lốm đốm bạc, nghẹn ngào không nói được câu nào. Xiết chặt tay Chăm Niên trước khi cậu ta bước lên xe tôi không sao cầm được nước mắt.

Chờ lâu, chờ rất lâu không thấy Chăm Niên trở lại Hà Nội như đã hẹn, tôi lên ban đối ngoại của Đảng để hỏi tình hình và được biết Chăm Niên đã vĩnh viễn ra đi, và XiThon, ThaoTu tiếp tục chỉ huy tiểu đoàn II giữ vững danh hiệu anh hùng cho đơn vị và làm cho đơn vị luôn luôn là đơn vị tin cậy của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Sau này tôi được biết thêm trong cuộc chiến đấu ác liệt cuối cùng có sự tích cực góp phần của tiểu đoàn II, quân dân Lào đã đuổi hẳn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng ra khỏi Lào. Trong các cuộc chiến đấu ác liệt đó XiThon và ThaoTu cũng đã đem máu nóng của mình góp phần phá tan xích xiềng nô lệ, góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng nước Lào vinh quang như ngày hôm nay.

N.K.B.L
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Phong trào đô thị là một mũi giáp công chiến lược không thể tách rời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược do Đảng lãnh đạo bắt đầu từ Hiệp định Genève ký kết (20 - 7 - 1954). Sẽ không có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 nếu không có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về phong trào đấu tranh chống Mỹ tại các đô thị miền Nam nói chung, tại Huế – miền Trung nói riêng.

  • INRASARA

    1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Sau này lúc về già, Nguyễn Trãi đã có lần nhắc lại hoài bão lập chí thời trẻ của mình bằng một hình tượng đẹp lạ lùng, "nhìn ánh sáng, muốn học chim phượng ca hát mặt trời lên" (Lãm huy nghi học minh dương phượng).

  • VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

  • TRẦN THIỆN ĐẠO Trước khi bàn tới nội dung và hình thức thiên truyện L’Art français de la guerre (Binh pháp của nước Pháp - Nxb Gallimard) của Alexis Jenni vừa trúng giải Goncourt 2011, cũng nên nhắc qua mấy điều nổi bật chẳng dính dáng gì với chất lượng tự tại của tác phẩm. Mà chỉ đơn thuần với tựa đề cuốn sách và tác giả của nó.

  • LGT: Anders Cullhed (sinh 1951) là giáo sư Văn học So sánh ở Đại học Stockholm, Thuỵ Điển. Ông viết luận án Tiden sòker sin ròst (Thời đại đang tìm kiếm tiếng nói) 1982 về nhà văn hiện đại Thuỵ Điển Erik Lindegren với tập thơ thời chiến Mannem utan vàg (Con người không lối đi) với một mối quan tâm đặc thù về sự tương quan của tập thơ này với chủ nghĩa hiện đại Pháp và Anh, với truyền thống văn học và với sự sụp đổ hệ thống tư tưởng đương đại gây ra do thế chiến thứ 2.

  • NGÔ MINH Xa Hà Nội (Nxb Văn học 2011), cuốn tiểu thuyết thứ 3 và tập văn xuôi thứ 7 của nhà văn Nhất Lâm vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 9-2011. Tôi đọc một mạch hết 334 trang sách. Cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề thú vị về cuộc sống và thời cuộc rất đáng suy nghĩ, chiêm nghiệm.

  • NGUYỄN QUANG HUY Hình thù của văn học không thể đến từ cuộc sống; nó chỉ đến từ truyền thống văn học; và vì thế cơ bản là đến từ thần thoại.                                                  N. Frye

  • LGT: Tiểu thuyết Vùng lõm của nhà văn Nguyễn Quang Hà được giải nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam 2006 - 2010. Ngày 24 - 10 - 2011 Hội đã tổ chức tọa đàm tiểu thuyết Vùng lõm, Sông Hương xin giới thiệu bài tham luận của nhà văn Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐẶNG TIẾN Thanh Tịnh là nhà văn có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học.

  • THÁI BÁ VÂN ĐỜI SỐNG VẬT THỂ VÀ ĐỜI SỐNG HÌNH TƯỢNG

  • THANH MẪN Tôi khóc những chân trời không có người bay Lại khóc những người bay không có chân trời.                                 (Trần Dần)

  • NGUYỄN VĂN HẠNH Văn chương là một hiện tượng không ngừng vận động, không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác.

  • L.T.S: Soutchat Sawatsri nhà thơ và viết truyện ngắn chủ bút báo "Thế giới sách vở" vừa là một nhà phê bình có uy tín ở Thái Lan. Trong bài "Thời đại và con người" đăng trên báo Pháp "Thế giới ngoại giao" năm 1983 Soutchat Sawatsri đã giới thiệu tóm tắt đầy đầy đủ các bước phát triển của văn học Thái Lan hiện đại.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNH Phan Huy Chú, tác giả «Lịch triều hiến chương loại chí», ở mục «Lễ táng sơn lăng», «Lễ nghi chí», viết «Ngọ Phong họ Ngô (1) nói: đời xưa thiên tử chết, bảy tháng mới chôn, chỗ đất chôn gọi là sơn lăng - Lăng đều có tên».

  • TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa

  • NGUYỄN DƯ Mời các bạn đi… xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)… của tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà vác. Vác giùm cho… lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa! Trời đất! Đùa hay thật vậy?

  • TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

  • KHÁNH PHƯƠNG Với “Đội gạo lên chùa”, cuốn tiểu thuyết mới (NXB Phụ nữ, 6/2011), nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tái ngộ độc giả bằng dòng văn chương ấm áp và cuốn hút, hứa hẹn những miêu tả, xét đoán tinh tế về tâm thức con người cũng như những bí ẩn thẳm sâu trong tiềm thức và văn hóa của một cộng đồng dân tộc.