NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ
Ảnh: wiki
Siêu hư cấu và Auster
Bản chất của văn học là hư cấu (fiction). Điều đó không còn là một vấn đề đáng bàn cãi khi từ những thế kỷ trước Công nguyên, Aristotle đã đề cập và luận giải về vấn đề này trong Thi học (Poetics) - một trong những trước tác lý luận văn học đầu tiên của phương Tây. Tuy nhiên, từ đó đến nay, trong các sáng tác văn học từ thời trung đại cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX - thời của chủ nghĩa hiện đại, người ta hầu như vẫn chưa hề dám tuyên xưng một cách trực tiếp, dũng cảm và thản nhiên rằng những điều họ nói trong tác phẩm của mình đơn giản là sự trình hiện những thực tại hư tưởng, mà đa phần chỉ xì xầm vào tai nhau và ngầm hiểu với nhau, dù luôn xác tín, về sự tồn tại ở mông lung đâu đó của một thứ căn cốt văn học được gọi là hư cấu. Tuy nhiên, đến kỷ nguyên hậu hiện đại, chính xác là từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây1, trong văn học bắt đầu xuất hiện nhiều tác phẩm thực hành những cú “pastiche” ngoạn mục: đem chính cái bản thể uyên nguyên của mình - tính hư cấu - ra mà phô trương và giễu nhại. Siêu hư cấu (métafiction) ra đời từ đó như một khái niệm phổ quát diễn tả tình thế lộ mặt của tính hư cấu văn học: “Siêu hư cấu là thuật ngữ dùng để chỉ lối viết hư cấu - lối viết quan tâm đến tình thế của chính nó một cách tự ý thức và có hệ thống như là một thể giả lập dùng để tra vấn về mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại”2. Như vậy, siêu hư cấu là hư cấu về hư cấu, là sự tự nhận thức của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận về quá trình hư cấu. Trong các sáng tác mang màu sắc siêu hư cấu, nhà văn sẽ tự thân bóc trần sự dụng công hư cấu của chính mình cũng như tính hư cấu của các thực tại, các tự sự trong tác phẩm, đồng thời nỗ lực xóa bỏ mọi sự cảm giác tín thác nơi người đọc. Ông sẽ bảo với các độc giả của mình rằng: Anh thấy đấy, tất cả đều chỉ là những trò chơi của tưởng tượng mà tôi, trong một giờ phút vui thú nào đó, đã tạo ra, và tôi sẽ thật hân hoan nếu anh cùng bước vào đây, cùng tôi chơi đùa trong trò diễn của chữ nghĩa.
Paul Auster tỏ ra rất thích thú với kiểu cách sáng tác ấy. Hầu như trong bất kỳ một tiểu thuyết nào, dù ngắn dù dài, Auster cũng vận dụng siêu hư cấu như một yếu tính của phong cách sáng tác. Tuy nhiên, nếu như trong Thành phố thủy tinh, Căn phòng khóa kín, Người trong bóng tối, màu sắc siêu hư cấu phát lộ rõ nét (ví như trong Thành phố thủy tinh, Quinn lấy danh Auster để giả lập vai một thám tử tư và bị chính Auster-tác-giả vạch trần sự giả lập ấy; hay như trong Người trong bóng tối, sự khả tín của những câu chuyện mà nhà phê bình Brill tạo lập hầu như đều bị Auster cáo buộc là ngụy tạo), thì ở Moon Palace, cấu trúc siêu hư cấu lại có phần bí hiểm hơn, chứa đầy những ẩn ngữ: Moon Palace vừa là một siêu hư cấu về “Kẻ khác” (the Other), vừa là những vòng lặp, những cuộc uốn xoắn, vặn gãy siêu hư cấu ấy.
Hư cấu song trùng như cuộc đối thoại của những kẻ khác và tình thế bất khả tín của nó
Những cuộc đời trong Moon Palace song trùng với nhau một cách lạ kỳ như thể tất cả chỉ là những bản thể khác của cùng một cái tôi duy nhất, mà cụ thể ở đây là nhân vật trung tâm của truyện - Marco Stanley Fogg. Nếu Fogg không biết cha mình là ai, lại mồ côi mẹ từ những năm anh còn bé tí, phải đến ở với bác Victor trong chật vật, thì các nhân vật khác có liên quan đến anh cũng có kiểu cuộc đời mồ côi đầy bi thương và cô độc như thế. Solomon Barber, người được Paul Auster cho là cha của Marco Fogg (thực ra cũng chỉ là một mảnh của siêu hư cấu), có cuộc đời gần như là nguyên bản với Marco. Ngay từ nhỏ, ông đã không hề biết cha đẻ mình là ai, chỉ biết ông là một họa sĩ đã tử nạn trên đường đến vùng đất phía Tây nước Mỹ để sáng tác; còn mẹ ông, cũng rất giống với hình tượng người mẹ của Marco, là một người đàn bà không mấy bình thường vì loạn trí. Hay như Kitty Wu - bạn gái của Fogg, cô lớn lên ở Tokyo, trong gia đình một cựu quân Tưởng Giới Thạch thất trận, phải đưa cả gia đình ra nước ngoài sinh sống. Ông có rất nhiều vợ, và mẹ Kitty chỉ là một trong số những người cha cô từng yêu thương. Sau khi bà chết, ông đột nhiên quyết định gửi cô sang Mỹ du học, và rồi cô mãi mãi chẳng trở về, dù là khi ông lâm bệnh nặng từ trần. Những câu chuyện kiểu như thế xuất hiện gần như liên tục và thường xuyên trong Moon Palace đến nỗi, khi nghe Fogg kể về cuộc đời Kitty Wu, Zimmer phải thốt lên: “Nghe có vẻ quen quen, đúng không?”, “bỏ đi màu sắc địa phương, nó sẽ gần như trở thành câu chuyện của một người khác mà tớ biết”3. Có thể nói, đây là một trong số những trường hợp hiếm hoi Auster cho chính những nhân vật trong câu chuyện của mình phát ngôn để vạch trần sự hư tưởng của các tự sự. Tuy nhiên, đúng như phát ngôn của Zimmer, hình như những cuộc đời được kể lại trong Moon Palace chỉ là một cuộc phân thân của một bản thể gốc, và những kẻ khác cùng tồn hiện trong bản thể ấy đang đối thoại cùng nhau, tra vấn nhau, tương chiếu lẫn nhau.
Bên cạnh các chi tiết về xuất thân và hoàn cảnh gia đình, cuộc đời của ba thế hệ trong gia đình Barber - Julian Barber (hay Thomas Effing), Solomon Barber và Marco Fogg - còn có nhiều điểm tương đồng trùng hợp đến lạ kỳ khác. Một trong những điểm song trùng đặc biệt ấy là định mệnh du hành mà cả ba nhân vật đều gắn bó như một lời nguyền bất khả hóa giải. Julian dấn thân về miền Tây nước Mỹ, để rồi phải trải qua những điều khủng khiếp nhất cuộc đời. Đến Solomon và Marco, định mệnh ấy lại chính là chuyến phiêu lưu về vùng núi non Utah để khám phá những nơi chốn đã ghi nhiều dấu ấn khó quên trong đời bố và ông nội mình (dù Solomon đã mất bất đắc kỳ tử trên đường vì lọt xuống một huyệt mộ). Thậm chí, cái tên của các nhân vật này cũng hàm chứa một định mệnh du hành không thể chối cãi. Cái tên Solomon, ngoài sự tương đồng với tên gọi một vị vua thông thái của dân tộc Hebrew, còn có phần tiền tố “Sol” rất đặc biệt, hàm chứa một định mệnh du hành và khám phá những con đường đi của vũ trụ. Auster lý giải: “[…] Ông trở thành Sol. Các nhà thơ thời Elizabeth dạy ông rằng đó là một từ cổ chỉ ‘mặt trời’, và không lâu sau ông phát hiện đó còn là một từ tiếng Pháp có nghĩa ‘mặt đất’. Điều này khiến ông nghĩ mình vừa là mặt trời vừa là trái đất, và trong nhiều năm ông hiểu nó theo hướng chỉ một mình ông đủ khả năng bao quát trọn vẹn mọi sự mâu thuẫn của vũ trụ”.4
Tuy nhiên, cái tên Marco Stanley Fogg mới thực sự phản ánh rõ nét định mệnh cay nghiệt nhưng cũng đầy mơ mộng ấy: “Marco Stanley Fogg. Theo ông, cái tên cho thấy du hành đã ăn sâu vào máu tôi, và cuộc đời sẽ mang tôi đến những nơi chưa từng đặt dấu chân người. Marco, một cách hoàn toàn tự nhiên, gợi đến Marco Polo, người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc; Stanley là phóng viên người Mỹ tìm được dấu vết bác sĩ Livingstone ‘ở giữa châu Phi tăm tối nhất’, và Fogg, đó là Phileas, người trở thành ngọn gió bay quanh địa cầu trong vòng chưa tới ba tháng”.5
Không chỉ có những định mệnh song trùng, cuộc đời ba thế hệ nhà Barber còn trải qua nhiều biến cố giống nhau một cách hết sức ngẫu nhiên, mà đơn cử là cơn đói và nỗi cô đơn cùng kiệt mà cả ba đều ít nhất đã một lần nếm trải, như một cách cảm nghiệm sâu sắc nhất bản thể của chính mình. Trong chuyến đi đến vùng Canyon miền Tây hoang dã, vì bị Scoreby phản trắc, Byrne lại không may rơi xuống vực chết đi, Julian Barber đã bị bỏ lại giữa sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống và phải chịu nỗi cô đơn cùng khốn nhất: “Một khi Byrne chết đi, tôi không còn phải bận tâm đến điều gì nữa, và sự trống rỗng đó làm tôi hoảng sợ, tôi mang một nỗi sợ ghê gớm đối với nó”6. Với Solomon Barber, tình thế của cơn đói bản thể như thế lại nảy sinh trong một hoàn cảnh khác. Là một người đàn ông to béo, đồ sộ, ông được bác sĩ khuyên rằng phải giảm cân, và cuộc chiến đấu chống lại cơn đói là một cuộc truy vấn tồn tại, đúng như nhận xét của Marco Fogg, “cứ như thể một nửa con người ông đã biến mất, như thể một khi tiến trình đã được khởi động, không tránh khỏi việc phần còn lại của ông cũng sẽ phải biến mất”7. Tương tự, với Marco Fogg, cơn đói cũng đến như một bản mệnh: vì túng thiếu, anh đã phải trải qua một chuỗi ngày dài đói, mỗi ngày chỉ được ăn hai quả trứng; thậm chí, khi chỉ còn hai quả trứng cuối cùng, anh lại vô tình làm vỡ nó; cuối cùng, anh phải lang thang trong công viên, lạnh, đói, bệnh tật, và nhất là phải chịu cảnh huống cô đơn sâu thẳm và đau đớn nhất. Tuy nhiên, theo những phân tích kể trên, vì sao Paul Auster lại cố ý xây dựng những hình tượng của cùng một gia tộc với những nét tương đồng đến bất ngờ như thế? Theo ý kiến của người viết, dụng ý của Auster là tạo ra một hiện tượng mờ nhòe bản thể, nghĩa là vừa phân thân bản thể Marco Fogg, vừa làm cho các phân mảnh ấy trượt lên nhau, trì kéo, liên đới nhau, từ đó khiến người đọc cảm thấy băn khoăn, trăn trở, liên tục truy vấn về tính xác thực của các tự sự đang hiện lên trước mắt họ. Dường như, Thomas Effing (hay Julian Barber) không hề kể về chính cuộc đời mình mà đang kể thay Marco Fogg về một bản sao định mệnh của anh, còn cuộc đời Solomon lại là hình ảnh phía bên kia tấm gương mà Fogg đang soi chiếu và ngược lại. Những tương ảnh ấy chính là một phần cội nguồn tạo tác nên thế giới siêu hư cấu của Moon Palace.
Tuy nhiên, không dừng lại ở đây, người đọc còn có thể bắt gặp những câu chuyện song trùng với cuộc đời của các nhân vật, mà tiêu biểu là Julian Barber (hay Thomas Effing), trong những ấn phẩm hư cấu được Auster thêm vào như một cách mờ hóa thế giới siêu hư cấu - thế giới của các tự sự vốn đã rất xáo trộn và bất khả tín - trong tiểu thuyết này. Khi kể cho Marco Fogg nghe về cuộc đời mình, Thomas Effing đã yêu cầu anh phải chép lại thành một văn bản hoàn chỉnh, tựa đề Cuộc đời của Julian Barber, đồng thời viết một bản cáo phó ngắn gửi về cho tờ The New York Times như một cách tuyên cáo, lý giải chính thức với cộng đồng về sự mất tích của người họa sĩ trẻ vốn được cho là đã chết năm xưa. Hay với Solomon Barber, trăn trở về số phận kỳ lạ của người cha xấu số, ông đã vận dụng toàn bộ mọi khả năng hư tưởng của mình mà viết ra quyển tiểu thuyết Máu của Kepler với nhiều đoạn đầy kinh hãi. Câu chuyện được kể lại trong những ấn phẩm này cũng vô cùng hư cấu, khó tin, vì về bản chất, chúng cũng là một sự diễn giải của những kẻ khác về cùng một bản thể trung tâm, một bản thể với định mệnh du hành, và hơn hết, một bản thể với số phận phải chịu đựng những cô đơn cùng khốn, những dằn vặt âm ỉ của kiếp hiện sinh.
Siêu hư cấu bị uốn xoắn hay vòng lặp của lời nguyền lưu đày
Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng, nếu trong các tác phẩm khác, cấu trúc siêu hư cấu thường được Auster xây dựng không quá phức tạp (như tình thế của Quinn trong Thành phố thủy tinh hay Brill trong Người trong bóng tối,…), thì trong Moon Palace, không chỉ một hư cấu duy nhất bị bóc trần và chúng không chỉ bị bóc trần một lần, mà thế giới siêu hư cấu trong cuốn tiểu thuyết này tràn ngập những phân mảnh được tái thiết và vặn xoắn liên tục, tạo thành một vòng lặp gợi nhiều ý nghĩa biểu trưng. Vòng lặp ấy liên quan mật thiết đến cuộc đời ba nhân vật thuộc dòng họ Barber. Tuy nhiên, nếu ở những đoạn viết này, tôi quan tâm đến việc những cuộc đời ấy chỉ là những phân mảnh của cùng một bản thể đang tham dự trên chuyến du hành khám phá và đối thoại cùng nhau, thì ở đây, tôi thử quan sát từ một góc độ khác: nhìn chúng như những siêu hư cấu riêng lẻ được tái lặp liên tục trong một định mệnh quy hồi - định mệnh lưu đày.
Cả ba nhân vật, từ Julian Barber, Solomon Barber đến Marco Stanley Fogg, đều bị ám ảnh bởi vùng đất nằm ở cực Tây nước Mỹ, và dường như cứu cánh cuối cùng của họ là đến được vùng đất ấy như tìm đến một cách giải thoát. Julian Barber, từ khi được gặp giáo sư Tesla, đã lên đường đến vùng núi Utah, bỏ lại vợ con, bỏ lại sự nghiệp và tất cả. Solomon lại luôn cố hình dung và mơ tưởng về vùng núi non cực Tây, thậm chí viết cả một quyển tiểu thuyết về vùng đất ấy như một cách giải tỏa những ẩn ức, băn khoăn về cái chết bí ẩn của cha mình. Còn với Marco Fogg, vùng núi đồi hoang dại ấy lại làm anh liên tưởng đến một Mặt trăng trên chính địa cầu, và vì thế, biểu tượng mặt trăng xuất hiện trong đời Fogg như một định mệnh, từ cái quán Hoa kiều treo biển Moon Palace, từ cuộc đổ bộ đầu tiên của người Mỹ lên mặt trăng năm 1969 cho đến một huyền thoại cũng liên quan tới mặt trăng do chính anh bịa đặt ra - huyền thoại về Cyrano de Bergerac.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, khao khát ấy không chỉ ở yên trong tâm thức của các thành viên ba thế hệ nhà Barber, mà nó đôi lúc còn phát lộ dữ dội, thôi thúc họ bước vào một cuộc hành trình chinh phục, dù vô cùng nguy hiểm và gian nan. Song những cuộc du hành ấy không đơn thuần là một sự giải tỏa khao khát bản thể, mà chúng, về bản chất, còn là những hành trình tự lưu đày. Nói như thế là bởi, vùng đất phía Tây nước Mỹ là nơi chứng kiến những cuộc tàn sát cuối cùng của dân da trắng đối với thổ dân da đỏ trước khi họ bị xóa sổ gần như hoàn toàn, và những người da trắng, vì thế luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về cái cúi đầu tạ tội trước những tộc người dị chủng và định mệnh lưu đày như một cách trừng phạt tự thân. Định mệnh này kéo dài dai dẳng và bền bỉ, âm thầm nhưng cay nghiệt và đớn đau, bởi nó truyền kiếp từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Julian chất chứa đầy ân oán với những người da đỏ; sự nghiệp nghiên cứu và quyển tiểu thuyết của Solomon lại có liên quan trực tiếp đến lịch sử và số mệnh của các dân tộc thổ dân; hay với Marco, khi một mình lái xe đến vùng núi đá Utah tìm kiếm những nơi chốn đã gắn bó cùng ông nội mình, anh lại bị những thổ dân lấy mất xe, tiền và khiến anh rơi vào một trạng thái trống rỗng cùng cực. Có thể thấy, Auster đã rất khéo léo xoắn vặn những siêu hư cấu để chúng tạo thành một cấu trúc có khả năng biểu đạt những vấn đề có liên quan đến định mệnh và số phận của một tộc người. Những hư cấu nhập nhoạng, bất khả tín trong Moon Palace, vì thế, cũng không dừng lại ở việc tạo ra một cuộc đối thoại và truy vấn giữa những kẻ khác trong bản thể của một cá nhân vô danh, mà còn là giữa những kẻ khác nằm sâu trong cái bản thể uyên nguyên của những lớp, những thế hệ người da trắng đã vượt nửa vòng trái đất để đến đây từ hơn 300 năm trước, man dại và nhẫn tâm tàn sát cả một tộc người bản địa [thậm chí là nhiều tộc người].
Moon Palace là một tiểu thuyết khó đọc nằm ẩn dưới hình hài của một câu chuyện dễ chịu và nhẹ nhàng. Nhưng cũng chính vì thế mà nó đáng đọc. Đọc Moon Palace, phải đọc đủ lâu và đủ sâu, để đau đớn và hân hoan nghe những bản thể đối thoại cùng nhau, để nghe những day dứt, ăn năn, và cả những lời hối lỗi chưa bao giờ là quá muộn.
N.Đ.M.K
(TCSH353/07-2018)
-------------
1. Phạm Ngọc Lan (2013), Tư liệu văn học: lý thuyết siêu hư cấu. Xem ngày 01/06/2017. Nguồn: http://www.hcmup.edu.vn/
2. Patricia Waugh (2001), Metafiction: The Theory and Practice of Self-Conscious Fiction, Routledge, tr.2.
3. Paul Auster (2009), Moon Palace, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội: Nxb. Văn học, tr.141.
4. Paul Auster (2009), sđd, tr.399.
5. Paul Auster (2009), sđd, tr.17-18.
6. Paul Auster (2009), sđd, tr.258.
7. Paul Auster (2009), sđd, tr.472.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.
NGUYỄN KHOA ĐIỀM Tìm hiểu diện mạo văn học một vùng đất là tìm hiểu những vấn đề gì?
KHẾ IÊM Hãy cứ tưởng tượng, khi hội họa mang đồ vật vào trong tranh (Pop Art, thập niên 60), và rồi tranh lại bước ra ngoài giá vẽ để đi vào thế giới hiện thực (thập niên 70), thì thơ cũng đang có những chuyển biến mới, chụp bắt yếu tố đời sống để sử dụng như yếu tố thơ.
HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…
NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương nối liền châu Âu với phương Đông.
BỬU Ý Tháng 11-1985, Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải thưởng Nobel cho Claude Simon, nhà văn Pháp theo trường phái mệnh danh là tiểu thuyết mới quy tụ những tên tuổi khác như A-lanh Ro-bơ Gri-dê (Alain Robbe-Grillet - người chủ xướng và lập thuyết), Na-ta-li Xa-rốt (Nathalie Sarraute), Mi-sen Buy-to (Michel Butor), Ro-ber Panh-Jê (Robert Pinget) v.v…
NGUYỄN VĂN HẠNH …Xa rời cuộc sống, xa rời con người, xa rời chủ nghĩa nhân văn vốn là linh hồn của văn học nghệ thuật trong sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy văn chương là mối lo lớn và là nguyên nhân sâu xa khiến cho văn chương mất sức sống, mất sức hấp dẫn vốn có…
LƯỜNG TÚ TUẤN Mỗi ngôn ngữ tự nó là một nghệ thuật diễn đạt của tập thể. (E.Sapir)
ROLAND BARTHES Lôgic học dạy chúng ta biết cách phân biệt thích đáng ngôn ngữ-đối tượng với siêu-ngôn ngữ. Ngôn ngữ-đối tượng chính là chất liệu phục tùng sự nghiên cứu lôgic; còn siêu-ngôn ngữ là ngôn ngữ, không tránh khỏi có tính cách nhân tạo, trong đó ta tiến hành sự nghiên cứu này.
TRẦN THIỆN KHANH Chúng ta sống trong một thế giới đầy những quy ước. Có quy ước công khai, thành văn; có quy ước ngầm, bất thành văn. Quy ước nhiều và có sức mạnh đến mức chúng ta tưởng chính nó làm ra chúng ta.
TRIỀU NGUYÊN 1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được một số nhà nghiên cứu xếp vào loại truyện ngắn hài hay truyện ngắn trào phúng.
- Cứ trừ dần đi dần đi, có thể còn lại là em, ôi Man Nương (Phạm Thị Hoài) - Đi tới tận cùng của cái vô thức, cùng với nhà thơ, hãy tìm thấy lại giấc mơ nguyên thủy (G. Bachelard).
NGUYỄN THỊ TỊNH THY 1. “Người trần thuật kiểu tác giả” hay “tình thế trần thuật của tác giả” là một thuật ngữ được đưa ra năm 1955 bởi nhà nghiên cứu văn học người Áo F.K.Stanzel và sau đó được tu chỉnh bởi J.Kristéva, G.Genette và J.Lintvelt.
INRASARA Khả năng nhận diện và tâm thế đón nhận cái mới ít liên quan đến thế hệ. Dù thế hệ mới nhờ ưu thế tuổi tác, dễ làm quen với cái mới, cái xa lạ. Dễ làm quen thôi, chứ chưa chắc đã chấp nhận, nhất là với cái mới trong văn chương. Sự thể cả bốn thế hệ người viết nhận định về thơ tân hình thức và sáng tác hậu hiện đại giai đoạn qua, là minh chứng(1).
TRẦN XUÂN AN …Ngẩng đầu/Im lặng/Ai hỏi nhà/Tôi chỉ xuống chân…
NGUYỄN THI VÂN Kỷ niệm 150 năm ngày sinh Tagore Trong quá trình tìm kiếm các bản dịch tiếng Hà Lan của đại thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941) trong những năm làm việc tại Hà Lan, nghiên cứu gia Liesbeth Meyer đã phát hiện một số thư trao đổi giữa Tagore với Frederik van Eeden (1860-1932) một trong những người Hà Lan đầu tiên đã giới thiệu thơ Tagore đến với xứ xở hoa tuy líp.
PHẠM PHÚ PHONG Đối với sự tồn tại và phát triển của một nền văn học không thể không kể đến đội ngũ những người sáng tác trẻ. Đó là lực lượng sung sức, giàu nhiệt tình và báo hiệu những năng lực mới cần được liên tục bổ sung.
AN-ĐRÂY ĐÊ-MEN-CHI-ÉP(Phát biểu của nhà thơ An-đrây Đê-men-chi-ép - Tổng biên tập Tạp chí “Tuổi trẻ” trong cuộc hội thảo về thơ nhân Đại hội các nhà văn trẻ Liên Xô lần thứ VIII.)
PHAN TUẤN ANH“Ôi, có lý và phi lý lẫn lộn vào nhau, lý trí trong điên loạn” [6,39].
TRẦN THIỆN ĐẠONếu như Viện Hàn lâm Thụy Điển, đầu tháng mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó(1), thì nay, Viện không còn có thể vớt vát được nữa.