LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.
Trong tác phẩm kinh điển Hoàng tử bé, tôi ấn tượng lời đề tặng của Saint - Exupéry cho người bạn Léon Werth: “Cho cậu bé mà trước kia người lớn ấy vốn từng là”. Thoạt tiên chúng ta cũng là trẻ con với đủ thứ tạo thành properties trong trẻo nhất của một cuộc đời. Dù vậy, cái “trước kia người lớn ấy vốn từng là” đa phần trở thành quên lãng, nằm ẩn trong bóng tối, trên giá sách kỷ niệm, trong câu chuyện bông đùa hay một tiếng thở dài xao xác. Hạnh phúc thay khi đọc “Trên đồi, mở mắt, và mơ”(*), tôi bắt gặp Văn Thành Lê, một trong số ít những người lớn hiếm hoi của chúng ta còn nhớ mình từng là trẻ con đi qua tuổi ngọc.
Nhân vật chính, cậu bé Thành, được bố mẹ cho về nghỉ hè ở quê nội, có lẽ là một đặc ân rất lớn của mỗi tuổi thơ và từ đây nhiều chuyện dí dỏm được mở ra. Cậu bé Thành rất đặc biệt, và dường như tạo nên một mode điển hình của một tuổi thơ lung linh: “Tớ đeo kính cận và luôn ôm theo cuốn từ điển tiếng Việt. Để gặp từ gì khó hiểu là tớ có thể tra liền, biết ngay”. Thành có các bạn trai Văn, Lê, các bạn gái Tuyết, Điệp, tạo nên một hội “vui không thể tả”, đủ các loại trạng thái biểu cảm, và những cuộc phiêu lưu ngộ nghĩnh.
Tôi ấn tượng với các title cho mỗi câu chuyện, ví dụ như “Trâu đi đền quan Bà” , “Nụ cười ngược sáng”, “Thăm dò địa chất giống thăm dò bụng lợn”… chỉ có thể đặt mình trong suy nghĩ trẻ con mới có sự đồng điệu như vậy. Nhà văn song hành cùng tuổi thơ, và kể câu chuyện của mình như kể câu chuyện của rất nhiều người khác. Thế giới thơ bé đầy mộng mơ, mọi thứ đều có câu trả lời theo cách riêng của một trí tưởng hồn nhiên, trong vắt. Hồn nhiên đã nuôi tuổi thơ bao trái ngọt trong khu vườn nhà, đống rơm, hồn nhiên sải cánh bay lên cùng cánh diều, lặn lội cùng đàn trâu và đêm về, hồn nhiên tặng cho những giấc mơ ngộ nghĩnh.
Bút pháp miêu tả, nắm bắt tâm lý nhân vật trong “Trên đồi, mở mắt, và mơ” song trùng các diễn ngôn rất trẻ con. Người đọc cảm nhận được lối suy nghĩ, cách sử dụng từ ngữ, cách xưng hô, cách đặt các câu hỏi và theo đuổi đến cùng các câu hỏi,... của cậu bé trong suốt cuộc hành trình đều rất trong trẻo. Nói về “chuyện tình yêu”, cậu bé Thành đã nghĩ “chẳng biết nói gì, chỉ biết cười trừ và đỏ nhừ cả má”. Hay tình tiết cháy đống rơm bác cả Phú ám ảnh cậu đến độ “mang nỗi sợ ấy vào giấc ngủ lúc nào không biết”. Chúng ta cũng tìm thấy lại những ước mơ thất lạc của mình đâu đó trong tác phẩm thiếu nhi này: “Tao làm họa sĩ. Họa sĩ có thể vẽ được tất cả các thứ mà mọi người mơ”. Một ý tưởng hay, cô gọn, trải bày những thực thể thuộc về thế giới ấu thơ như một sự thật hiển nhiên: “Cả hội bám vào vào những quả- ước- mơ của mình, lửng lơ bay lên, vào thăm thẳm trời xanh”, mang đến cho người đọc nét dễ thương không lột tả hết bằng lời. Và sự giáo dục đạo đức trong “Có tổ có tông”, biết hướng về ông bà tổ tiên, cái phận hiếu đạo sơ khởi khi cậu bé thắp hương, khấn vái: “Lần đầu tiên tớ ý thức được là tớ đang trò chuyện với những người trong dòng họ”. Đó là chiếc áo ý thức về bổn phận, trách nhiệm vừa vặn với tuổi thơ luôn chực chờ hàng lố câu hỏi trước đời sống, trước thực tại nhiều trắc vấn.
Người lớn đã từng là trẻ con, và dĩ nhiên trẻ con rồi cũng sẽ là người lớn. Khi trở thành người lớn, tôi mới phát hiện ra rằng mình đã đánh mất điều gì đó rất khổng lồ trong một cậu bé con: vẻ hồn nhiên. Khi đọc “Trên đồi, mở mắt, và mơ”, tôi đã thấy mình trong đó và tôi nghĩ rằng nhiều người lớn sẽ có chung cảm giác này. Cuốn sách vẽ một bầu trời tuổi thơ tươi đẹp và cứ hãy nghĩ rằng bạn sẽ gặp nhiều bạn tốt và chắc rồi bạn cũng sẽ giúp mọi người làm việc tốt. Việc tốt đến từ hồn nhiên chân thật.
Người lớn như tôi phải tiếc nuối và nhớ thương chính mình một tuổi thơ đã đi qua và khó có thể van lơi rằng: “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” như Nguyễn Nhật Ánh đã tạo slogan cho nhiều thế hệ. Người lớn muốn tìm hồn nhiên, họ sẽ lột bỏ tất cả mọi bắt chước, mọi trang bị do thời gian đắp đổi lên. Hồn nhiên không yêu cầu cái gì quá lớn, hồn nhiên không cần sự phức tạp. Hồn nhiên có trong tuổi thơ của các bạn, điều đã trôi qua với người lớn và sẽ trôi qua với các bạn nhỏ. Thế nên, khi gấp lại “Trên đồi, mở mắt, và mơ” của Văn Thành Lê, tôi mơ được mở mắt trên đồi.
L.V.T.G
(SHSDB28/03-2018)
...............................
(*) “Trên đồi, mở mắt, và mơ”, Văn Thành Lê, Nxb. Kim Đồng 2017.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)