Mới chỉ là bắt đầu

09:24 15/06/2011
HOÀNG THÁI SƠN (Về nhà thơ trẻ Xích Bích)

Nhà thơ Xích Bích - Hải Bằng ký họa

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Những gì Xích Bích để lại, cho đến nay, nói thật là tôi chưa dám đọc kỹ. Đó là chuyện thường trong tâm lý tình cảm. Số lượng cũng không nhiều lắm, nếu không nói là ít ỏi. Đó là phần “Hoa bí vàng” trong tập thơ “Tiếng hát một chặng đường”, in chung với Dương Tử Giang, còn lại là mấy cuốn, gồm nhật ký, ghi chép, những bài thơ chưa công bố, những bản thảo dập xóa nhiều chỗ và những bài thơ nước ngoài do anh dịch…

Cuối năm 1965, trong một lá thư gửi cho tôi, anh có viết: anh có một số thơ đăng trên báo Văn nghệ và in ở các tập thơ văn của Quảng Bình xuất bản. Tôi tìm đọc. Lúc đó tôi chưa hề biết anh là Xích Bích. Nhưng qua hơi thở ở các bài “Bài ca đường mới”, “Bốn em bé Lý Ninh”…, thì tôi cầm chắc đó là thơ anh rồi. Nói như vậy để nói là Xích Bích vào làng thơ không sớm: lúc đó anh đã 26 tuổi.

Một trong những yêu cầu cơ bản của người cầm bút là vốn sống, trong đó những ấn tượng tươi mới về cuộc đời và những người đồng thời vô cùng quan trọng. Là một giáo viên trong chiến tranh, Xích Bích không đi được nhiều. Nhưng những nơi đã sống, những gì mà bằng mọi giác quan con người tiếp xúc được đến được với anh, đều được đầu óc cảm thụ tinh tế và nhạy bén của anh thu nhận rồi chuyển hóa vào thơ khá sinh động.

Càng về Đồng Hới - thành phố của hoa hồng nhưng anh không lặp lại người khác:

Phố ta xưa nhiều hoa hồng lắm
Mỗi người dân là một nhà thơ.


Quê hương và người mẹ là đề tài của nhiều nhà thơ đông tây, kim cổ. Về quê hương, Xích Bích có đến mấy bài thơ, bài nào cũng ngập tràn nỗi nhớ nhung của người con gửi về xứ sở:

Đã mấy năm rồi
Chưa về thăm làng quê rợp mát
Chưa được về trồng lại một mùa ngô
Ôi, những mùa ngô quấn kèn đầy mặt đất
Ta đi đuổi chim đàn, tiếng hú gọi vang xa

                                    (Làng)

Với con sông chảy phía trước nhà, Xích Bích so sánh có lý:

Nhiều người con gái đi trong cuộc đời
Chỉ một người ở lại giữa tim thôi
Trăm con sông trôi về biển cả
Có một dòng giữa lòng mình dạt dào sóng vỗ
                                   
(Con sông yêu)

Gia đình anh chỉ có 4 người nhưng chưa lúc nào được sum họp đủ cả trong một bữa cơm đầm ấm. Ấn tượng về người mẹ giàu đức hy sinh ở anh do đó thật đậm nét và mong bạn đọc cũng thật thông cảm để chấp nhận một nỗi buồn phảng phất:

Con đi kháng chiến xa nhà cả
Thư về thưa mỏng mấy lần vui?
Run run tay mẹ lần trên giấy
Tưởng gặp môi con rạng rỡ cười.


Bất chợt nói về mẹ một lần như vậy để rồi sau này cảm xúc anh chín hơn trong bài thơ “Làng”:

Đã mấy năm rồi
Chưa về thăm làng quê bé nhỏ
Ôi! Cái chấm xa xanh diệu vợi giữa tâm hồn
Nơi đã đứng ở góc nào cũng nhìn ra dáng mẹ
Áo nâu bầm lam lũ mái tóc sương.


Bài thơ này được nhiều người nhớ lâu. Rõ ràng là giọng trữ tình của Xích Bích đã lần đúng những cung bậc tình cảm của không ít người gọi ra những gì sâu lắng nhất của tâm khảm.

Không chỉ ở đó, với “Hoa bí vàng” anh cũng đã giúp nhiều người tự khám phá mình.

Áo ăn nâu, áo vá vẫn bền màu
Em có một niềm vui chờ đợi
Công việc rộn ràng kháng chiến dài lâu
Ai xui hoa bí nở vàng cho lòng nhớ nhau.

Cuối năm 1967, Xích Bích cùng thầy trò trường cấp 3 Quảng Ninh sơ tán lên Minh Hóa - “Rào Đá” là hái lượm quý giá trong “chuyến đi” đó:

Lại ngược Trường Sơn lên Rào Đá
Lưng ba lô, vai bạc áo phòng không
Sậy uốn lưng tôm sỏi son mòn dép lốp
Nắng trưa hè chua loét nước bình toong


Bài thơ như có hơi thở của người lính ra trận:

Lại ngược Trường Sơn lên Rào Đá
Đến lượt ta rồi, nghe súng thở trên vai
Trán lịch sử mấy nghìn năm vẫn trẻ
Đời nối đời tiếp bước dưới cờ bay
Vì hy vọng giữa làng ta xanh thẳm
Ta biết trồng cho cây nở ước mơ

                        (Thành phố hoa hồng)

Thế rồi “Thành phố vở mấy trăm ngày ác liệt” và Đồng Hới đã ra đi… Anh hiểu thấu tâm tư của con người vốn thương chốn cũ. Trong bài “Thư làng mới”, anh viết:

Ra giếng rơi gầu thương bến cũ
Vào ngõ nhìn quanh tưởng lạc nhà
Mẹ bảo: đêm nằm nghe gió nội
Cứ ngỡ triều lên dưới cửa ta
.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, chúng ta không ai mặc cảm trước thời cuộc mà đã vươn tới với sức sống mãnh liệt. Những con người rất đằm thắm với quê cũ ấy đã làm hết sức mình:

Sáng, chiều đi vỡ đất khai hoang
Trưa họp dân quân tối họp đoàn
Lo năm học mới, trường thêm lớp
Có bữa cơm ăn cũng vội vàng


Và đã tạo ra một quê hương “Mát nước giếng khơi, ngọt quả đầu mùa” góp phần cho cuộc sống và kháng chiến.

Đến hồ Cẩm Ly một lần, anh đã để lại những vần thơ khó quên:

Đây cá gặp mây, rừng thấy biển
Trời ngỡ ngàng, chim lạc cả đường bay
Thuyền neo mộng giữa lưng chừng núi hiện
Trăng nghiêng mơ trắng mịn mặt hồ đầy

                                    (Cẩm Ly)

Nói về người con gái bình tĩnh ngồi trên bom nổ chậm để động viên đồng đội làm việc, anh lấy ra được một ý khá độc đáo:

Thành khẽ mỉm cười
Giá có một cây… kim
Ngồi khâu lại đôi gấu quần rách thủng
Đường chỉ, mũi kim xưa lừng lẫy tiếng
Mười ngón tay ngà con gái đất Phù Kênh
.
                        (Người ngồi trên bom nổ chậm)

Thơ Xích Bích xuất hiện muộn nhưng lại sớm chín. Chín trong nhận thức, trong tình cảm và cả trong cách thể hiện. Trong bối cảnh của thơ ca những năm 60, Xích Bích có được sự chú ý đáng kể nào đó, ngoài cái tài nếu có, cái chính có lẽ là cái tình đằm thắm nhưng không ồn ào của anh với cuộc sống.

***

… Lần anh đi Minh Hóa, tôi gặp anh ở Phú Vinh nơi đoàn sơ tán nghỉ chân. Thật là kỳ lạ. Trong một ngôi nhà nhỏ ghép bằng hòm đạn gỗ thông và gỗ súc, lợp bằng gỗ phiến hệt nhà người gác rừng bên bờ suối; giữa cái rốn của bom đạn, Xích Bích ung dung ngồi đọc “Chiến tranh và hòa bình” bằng tiếng Pháp với cuốn từ điển bỏ túi. Và anh chơi ghi-ta. Những ngón tay thon nhỏ, mềm mại rất thành thạo với những biến tấu dân ca và những bài tập đầy khó khăn của Karuli, những tác phẩm cổ điển. Trước kia anh cầm ác-sê, chẳng hiểu anh bỏ rơi nó hồi nào rồi? Rồi anh đi… Tôi còn như thấy anh với cái áo blu-dông sẫm nâu khuất sau hàng tre. Nào ngờ đó là lần cuối cùng tôi được biết trên đời này đã từng có anh.

Cuối tháng 6-1968, tôi nhận được điện anh đã hy sinh ở Đồng Lê. Thế là trên mảnh đất Quảng Bình bỏng lửa, có những người anh hùng đã hy sinh và cả những nhà thơ hát ca về những chiến công của những anh hùng cũng đã ngã xuống.

Dương Tử Giang và Xích Bích hy sinh trong cùng một thời kỳ.

Sau đó mấy hôm, tôi chạy lên cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình, như tìm về nơi gửi gắm nỗi niềm duy nhất hồi ấy. Anh Xuân Hoàng tiếp tôi, vẻ mặt rầu rĩ. Anh ngồi lặng trong cái salông cũ kỹ, chậm chạp đọc cho tôi nghe bài thơ anh mới viết tặng Dương Tử Giang và Xích Bích. Tôi xin anh chép lại bài thơ đó. Rất tiếc là sau đó, chút kỷ niệm này cũng mất trong chuyến đi vào chiến trường của tôi cùng toàn bộ “gia tài” của người lính.

Bài thơ của anh Xuân Hoàng có đoạn nói về việc Xích Bích vừa gửi chùm thơ mới làm về Hội và gửi thư cho bác Dương Tử Giang. Thư đến cơ quan Hội còn người gửi và người nhận đều đã hy sinh gần như là đồng thời. “Trong chiến tranh thư đến chậm là thường”. Tôi rất hiểu nhà thơ.

Hai năm sau, trong điều kiện khó khăn, Hội Văn nghệ Quảng Bình đã ra cho Xích Bích phần “Hoa bí vàng” trong tập thơ in chung với Dương Tử Giang đã nói ở trên.

Cám ơn những đồng chí làm công tác văn nghệ ở tỉnh nhà đã quan tâm đến một hồn thơ mà tất cả những gì có được buổi ấy, mới cũng chỉ là sự bắt đầu.

Tháng 5-1985
H.T.S.
(15/10-85)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Nguyễn Thị Lê Na không thuộc lớp “cây bút trẻ” (chị sinh đúng vào năm đất nước thống nhất - 1975), lại phải gánh nhiệm vụ quản lý một tạp chí văn nghệ, nên sau “Bến Mê”, đến nay chị mới xuất bản “Đắng ngọt đàn bà”(*) (ĐNĐB).

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG    

    Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).

  • NGỌC BÍCH
        (Đọc "Thơ Ngô Kha"*)

    Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ     

    Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)