PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc cuốn sách Trước nhà có cây hoàng mai - Tập tùy bút và phóng sự về Huế - xứ sở phong rêu kiêu sa của Minh Tự, Nxb. Trẻ, TP HCM 2016)
Thật lòng mà nói cũng có phần tò mò và chờ đợi khi nghe nhà báo Minh Tự ra tập sách về Huế. Bởi Cố đô đã quá nổi tiếng với vô vàn bài viết của nhiều người thành danh trong giới văn bút. Khai thác một đề tài tưởng như vô tận nhưng đã có vô số những lập ngôn ấn tượng là một trở ngại không dễ vượt qua.
![]() |
Năm bài đầu tiên của cuốn sách toàn nói chuyện ăn xứ Huế. Bài mở màn “Ăn theo “lối Huế” coi như “dẫn luận” chung trước khi đi vào những “món” cụ thể. Tác giả đã điểm lại chuyện triết lý ẩm thực của chốn kinh kỳ, thống kê số lượng món ăn Huế đóng góp cho cả nước, cho thấy vai trò của nó không chỉ về “chất” mà còn cả “lượng” cũng như sự dung hòa của món ăn giữa quý tộc với bình dân, sự giao thoa của các nền văn hóa của các dân tộc trong ăn uống và cả sự đóng góp của tôn giáo vào lĩnh vực này. Huế, về mặt ẩm thực có thể coi là một Việt Nam thu nhỏ. Tác giả lý giải khá thuyết phục: “Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu công bố, kho tàng ẩm thực Việt có khoảng 1700 món thì Huế chiếm đến 1300 món, hiện còn lưu truyền trong dân gian 700 món, chia làm ba hệ chính ẩm thực: ẩm thực cung đình, ẩm thực dân gian và ẩm thực chay. Theo cố giáo sư dân tộc học Từ Chi, món ăn Huế là sự kết hợp hài hòa giữa món ăn người Chăm với món ăn của người Việt cổ và người Mường cổ. Qua năm tháng, dân gian xứ Thuận Hóa tiếp tục tạo thêm nhiều món ăn mới. Đến khi Huế trở thành Kinh đô, món ngon của cả nước lại đưa về dâng tiến vua. Huế còn là kinh đô Phật giáo với một hệ ẩm thực chay rất độc đáo. Tất cả đã tạo cho Huế một thực đơn vô cùng phong phú, có đủ Bắc-Trung-Nam, núi rừng, đồng bằng, sông suối, đầm phá, biển cả… Vì thế nếu có thể chọn một vùng ẩm thực đại diện cho Việt Nam thì Huế là một nơi thỏa mãn nhiều tiêu chí” (tr 8 và 9, sđd). Cũng khá bất ngờ khi người viết dẫn chứng sau đoạn này bằng một món ăn dân dã không ngờ, đó là cơm Hến khi dán thương hiệu “nấu theo lối Huế” là cung đình thì cầu kỳ mà dân gian thì kiểu cách. Bởi vì ngay với món ăn này, “ngon hay dở còn tùy vào khẩu vị mỗi người, nhưng cách chế biến với gần chục thứ rau, mười mấy thứ gia vị, xanh đỏ vàng tím, công phu kỹ lưỡng, chỉ nhìn thôi là đã thấy mê.” (tr 9, sđd).
Cũng theo Minh Tự triết lý này không chỉ cầu no, mà còn phải đẹp mắt, đẹp tâm hồn, nghĩa là phải hội đủ khẩu thực, nhãn thực và tâm thực luôn hiển hiện trong các món ăn Huế như chè Huế, mắm Huế, muối Huế và bánh Huế.
Khi dẫn dắt du khách la cà “phố ẩm phương thực” đất thần kinh, tác giả đã hào hứng giới thiệu về bánh canh đường Hàn Thuyên (Thành nội Huế) hấp dẫn, nghe nói đã thèm: “Ở đó có đủ loại bánh canh bột gạo, bột lọc, bột mì, nấu đặc với tôm, cua hoặc nấu lỏng với cá tràu. Những đêm rằm, mồng một còn có cả bánh canh chay nấu với nấm rơm, khuôn đậu…Trời nóng bức nhưng tô bánh canh nhất thiết phải hôi hổi bốc khói và hành và rau răm và ớt cay xè. Húp xong một tô là kể như mọi lỗ chân lông đều mở toang, mệt mỏi theo đó mà biến mất.” (tr 13, Sđd).
Đi “ăn hàng” ở Huế, thực khách sẽ còn biết thêm “phố hến” đường Trương Định, phố bánh ướt thịt nướng Kim Long, “phố bèo-nậm-lọc…” gần Cung An Định hay đường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Gia Hội. Sự ăn Huế thật không hề đơn giản: “Thật khó mà diễn tả hết cái ngon từng loại bánh. Các cô gái thì thích bánh bèo vì cái vẻ cầu kỳ của nó. Ăn bánh bèo như thể ăn nghêu, cả một mâm đầy những chiếc chén nhỏ, trong đó có tráng một lớp bánh trắng nhân tôm chấy mỡ. Ngồi tỉ mẫn dùng cái xăm bằng tre để khều từng cái bánh ra khỏi chén, công phu và thú vị thiệt. Bọn trẻ con thì thích bánh nậm, bột gạo nhân tôm tráng mỏng một lớp lá dong hấp chín. Chỉ nghe cái mùi lá dong thoa mỡ bốc khói thôi là đã tiết hết dịch vị. Thực khách đàn ông thì thích bánh bột lọc hơn, bởi cái vị dẻo thơm của phiến bột trong veo nhìn rõ cả con tôm chấy ôm lấy miếng thịt heo, chấm với nước mắm ớt xanh tinh khiết. Còn tôi thật tình vẫn thích cái cảm giác ngồi trong phố Bèo-Nậm-Lọc-Ướt-Ít-Ram mà vừa ăn vừa đọc các tấm bảng hiệu đầy chất thơ ấy.” (tr 15, sđd).
Sự ăn của Huế cầu kỳ, tinh tế bậc nhất thì sự chơi của Huế cũng vi diệu, uyên nguyên ít nơi bì kịp. Loạt ba bài viết về hoa mai: “Trước nhà phải có cây hoàng mai”, “Đi tìm lão mai”, “Cái chết của một lão mai” cho thấy một sự thâm nhập khá sâu của cây bút Minh Tự vào thú chơi cây cảnh đặc biệt này, vượt qua giới hạn của những bài báo thông thường. Dân Cố đô đối với loại cây này gần như một tín ngưỡng: “…để bạn thấy người Huế quý cây mai đến dường nào. Quý đến mức tôn thờ như một linh vật. Có thể nói với người Huế, hoàng mai là linh hoa. Nhà cào cũng có cây mai vàng trước sân. Cung điện của vua trước sân trồng mai vàng. Nhà dân bần hàn cũng mai vàng trước ngõ. Từ đường của dòng họ thì chắc chắn không thể thiếu cây hoàng mai. Vườn chùa Huế mà thiếu mai vàng thì khác gì chùa vắng bóng Phật” (trang 55, 56 sđd).
Nhưng chủ nhân của những sự ăn, sự chơi, sự sống là những người Huế - linh hồn của Huế mới là điều đáng nói nhất. Đó có thể là ông Nguyễn Hữu Vấn, Chủ tịch Hội sinh vật cảnh Huế và ông Vĩnh Ký, thợ kim hoàn yêu mai gần như máu thịt của mình. Người đọc cứ nhớ câu nói của ông Vĩnh Ký khi khước từ một số tiền quá lớn của một đại gia ở Vũng Tàu muốn mua “lão mai” gần trăm tuổi: “Chừng nớ năm đã qua ba đời người, trong khi cây vẫn còn sống, vẫn trổ hoa, quý hiếm như rứa thì biết định giá răng đây?” (trang 65, sđd). Hay ông Nguyễn Hữu Tùng mấy lần “đấu xảo” cây cảnh toàn quốc đem huy chương vàng về cho Huế, luôn tâm đắc với một câu nói của nhà văn Nguyễn Tuân: nghệ thuật là vô giá; hoặc như bác sĩ Đoàn Chí Thiện, người cất công mang cây xương rồng bị thương bởi chiến tranh ra tặng cho Bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Có thể đó là thầy giáo, võ sư Nguyễn Văn Dũng với những cuộc chơi kỳ thú lên rừng xuống biển. Chính ông đã khởi xướng với bạn bè gặp nhau đêm cuối năm. “Võ sư Dũng nói hóa ra cái chuyện gặp nhau uống vài ly vào giờ cuối năm lại không đơn giản chút nào. Để đến với cuộc gặp vào thời khắc cuối năm, người ta phải vượt qua mọi sự ràng buộc của đời thường, với người Huế thì cả một mớ bòng bong ràng buộc quanh mình. Đó là một sự thử thách cũng là một sự giải thoát để trở về với chính mình. Vào thời khắc đó, đứng ở góc chân cầu Trường Tiền, mà ngắm Huế mới thấy lạ làm sao. Nhìn lên cầu thì thấy dòng đời đang trôi vội vã, không kịp để nhìn rõ một khuôn mặt nào cả. Nhìn xuống sông Hương lại thấy dòng nước trôi thảnh thơi như kẻ đạt đạo. Tự nhiên thấy cái vòng tròn bè bạn này là gần gũi và thật nhất. Võ sư Dũng nói nhớ nhất là cái năm có người đẹp Kiều Ly, một Việt kiều ở Canada về chơi, tình cờ ghé đến cái chiếu rượu dưới chân cầu Trường Tiền. Người đẹp mặc một chiếc váy màu trắng nhẹ như tiên và cất tiếng hát “nhà tôi bên chiếc cầu soi bóng”, rồi cất bước cũng nghẹ như tiên, khiến cả hội ngẩn ngơ…” (tr122, sđd).
Người Huế có thể là hai bậc trí giả, “Hai thầy Phan nghiên cứu Huế” một lòng, một đời gắn bó với Cố đô. Đó là thầy Nguyễn Hữu Châu Phan và thầy Hồ Tấn Phan. “Thầy Châu Phan - nô bộc của sách” có cống hiến nhiều cho thư viện một trường THPT như Trường Hai Bà Trưng vào thời điểm khó khăn nhất sau năm 1975 từ lèo tèo mấy cuốn lên đến hai vạn cuốn sách; ông cũng đã người “tiền khai khẩn” Nhà in Hai Bà Trưng, sau này thành một doanh nghiệp hẳn hoi; và cũng chính ông đã tạo dựng tạp chí “Nghiên cứu Huế” uy tín trong cả nước. “Thầy Tấn Phan - người chịu khó nói điều khó chịu”. “Nhưng, điều mà người ta nhớ lâu về ông giáo già này không chỉ là những cuốn sách. Trong giới nghiên cứu Huế, ông Phan là một gương mặt rất lạ, một giọng điệu không giống ai. Đó là một người hay phát hiện những cái sai trong các sách vở, trong công trình nghiên cứu của người khác, hay đề xuất những ý tưởng hóc búa. Nhiều người không vui, có khi bực bội, thậm chí tức tối, nhưng không thể trách được, vì ông Phan nói không sai và nói bất vụ lợi.” (tr 166, sđd).
Còn nhiều bài viết nặng lòng với Huế trong cuốn sách này. Có thể là thu hút ngay từ nhan đề như: “Không ai ăn hai lần trên một tô bún bò Huế”, “Người Huế thì phải ăn mè xửng”, “Bán cả máu mà mua đồ cổ”, “Vẽ bằng mũi kim”, “Huế không mưa thì còn chi Huế”, “Vẻ đẹp giết chết thi sĩ”, “Sách không người đọc là sách chết”; hay bâng khuâng nhớ tiếc như “Dấu xưa Gia Hội”, “ Phiên chợ khuya”, “Những đêm Huế xôn xao”, “Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu”…
Bài “Chỉ một hướng xuất hành” khi bàn chuyện chọn hướng đi ngày tết ngay từ khi sách còn thơm mùi mực đã được nhiều người xúc động và chia sẻ. Đó là tình cảm, đạo nghĩa của Huế, của Việt Nam qua gan ruột của một người viết báo. “Bây giờ mạ tôi đã về yên nghỉ bên cha tôi và ông bà tổ tiên trên ngọn đồi sim. Tết này và mãi mãi những tết sau, tôi chỉ có một hướng xuất hành duy nhất: hướng cha mẹ tôi nằm. Không còn hướng nào tốt, hướng nào xấu nữa cả. Chỉ một hướng đi, hướng đã sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn, thành con chim “đủ lông đủ cánh” bay khắp mọi miền. Hướng mà tôi có thể nhắm mắt đi mà không bao giờ lạc. Chỉ cần nghĩ về nơi ấy là tôi lấy lại sự thăng bằng giữa cuộc đời sóng gió. Hướng mà mỗi lần tôi mang ba lô trở về là cảm thấy nghèn nghẹn khi ngửi mùi khói bếp chiều cuối năm. Đó là hướng mãi mãi bình an vô sự cho chúng tôi, những đứa con dù đã bạc đầu vẫn bé bỏng đối với mạ!” (tr 202,203, sđd).
Văn của tác giả là văn của một nhà báo, chưa phải là “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” nhưng vẫn đủ sức rủ rê người đọc theo mình đến Huế, vẫn mang lại nhiều điều thú vị và đáng tin cậy, vẽ nên một Huế quá quen mà vẫn lạ. Một giọng văn điềm đạm, ngay cả khi say sưa vẫn chừng mực, nhẹ nhàng. Ngần ấy cũng đáng để cho mọi người dành thời gian đọc sách.
P.X.D
(SHSDB21/06-2016)
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.