YẾN THANH
Tôi là một khối trầm tư
Hiện diện như thể một hư vô. Buồn
(thơ miên di)
(Tặng chị Ngọc - người đàn bà Huế lặng lẽ đứng sau những vầng thơ)
Ảnh: internet
1. Tiểu tự sự và triết học đa bội
Thật khó để có thể viết đúng bút danh của “miên di”, bởi chính xác anh là “miên di” chứ không phải “Miên Di” hoặc “Miên di”. Sự “sai chính tả” không viết hoa tên riêng của anh hẳn chuyển chứa một quan niệm sống nào đó có tính tư tưởng và nhân sinh quan, chứ không phải là lối viết tùy tiện. Hẳn rằng, cách viết này giống như “đoàn minh phượng” với tiểu thuyết và khi tro bụi, chữ “và” trong tựa đề như một liên từ cũng không viết hoa. Cả miên di và đoàn minh phượng, dẫu quốc gia, nền văn hóa sinh tồn cách xa nhau, cùng “chơi” trên những thể loại khác nhau, nhưng tác phẩm văn học của họ đều là sự khắc khoải bản thể, sự truy vấn nhân sinh. Một điểm chung khác, cả hai đều buồn trong hành trình miên viễn của mình. Việc không viết hoa như một sự xóa nhòa, hủy tạo bản ngã, nhưng lại luôn kiếm tìm tự ngã.
Việc không viết hoa tên riêng như cách giải cấu trúc cái tôi của mình, vừa như thái độ ứng xử dưới tư thế văn hóa là một tiểu tự sự (petit-narrative) trong triết học hậu hiện đại. Có lần, trong một đợt lang thang trên phố núi Pleiku, tôi vào một nhà hàng sang trọng. Tìm hiểu ra tôi mới biết đó là nhà hàng của miên di. Việc chủ quán nhậu làm thơ là khá lạ, nhưng cũng không quá hiếm. Khi người ta có tiền người ta dễ thích “chơi/mua danh”. Nhưng chủ quán làm thơ hay và đặc biệt là không treo nơi sang trọng, thêu chỉ vàng trên lụa gấm đỏ như nhiều người khác mới là điều kỳ lạ. miên di có lẽ từ trong tư tưởng, muốn thơ mình là thứ thơ đời sống, dân gian, như lựa chọn của Bảo Sinh hay Bút Tre. Điều này sẽ không xa lạ nếu ta đọc thơ miên di, nhất là trong tập thơ Lũ buồn hoang [Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018] vừa được xuất bản.
Lũ buồn hoang là một tập thơ dày, dễ làm nản lòng những bạn đọc khi vô tình bắt gặp trên kệ sách. Tuy vậy, thế giới chữ nghĩa trong Lũ buồn hoang dày đặc những khoảng trống mênh mông, những triết lý có tính đốn ngộ như thơ Haiku, nên sự “dày” của vỏ vật chất bên ngoài chỉ là cảnh giới xác thịt tầm thường ngăn trở những bạn đọc nông cạn. Thơ miên di là thứ thơ trôi giữa hai dòng nước chảy, anh vừa đủ sang trọng và bác học, nhưng cũng rất bình dân và bụi bặm đời thường. Thơ anh mạnh về triết lý, suy ngẫm, nhưng cũng để lại nhiều phát hiện đời thường ám ảnh, thú vị. Do vậy, rất nhiều bài thơ của miên di làm tôi liên tưởng đến thơ Bùi Giáng, thơ Bảo Sinh, thơ Đồng Đức Bốn hay là cả Nguyễn Thế Hoàng Linh. Do vậy, sự hứng khởi khi tiếp nhận thơ miên di là rất dễ hiểu, từ những nhà phê bình hàn lâm như Chu Văn Sơn, cho đến những người bán rau ngoài chợ - những người bên lề của cuộc sống. Hẳn vậy nên trên bìa 4 của tập thơ, tác giả chọn ra ba đoạn phê bình thì có 2 đoạn thuộc những bậc trí giả lớn trong cuộc đời anh, nhưng đoạn đầu tiên lại thuộc về một người đàn bà kẻ chợ tên Mây. “Tôi chỉ là một người đàn bà buồn bã không biết gì về văn thơ, vô tình đọc những bài thơ đau đớn của miên di, không biết vì sao đã khiến tôi vui sống được cho nỗi buồn thân phận mình”. Như vậy, thơ anh đã vượt qua được những chia biệt đúng - sai, cao - thấp, hàn lâm - bình dân, để thực sự là thứ thơ vô chấp. Thơ của anh cũng là sự lai ghép, hỗn trộn các tư tưởng, triết lý và tôn giáo khác nhau, không có phân ly và đối lập. Ở đấy, ta thấy triết lý vô ngã, vô thường của Phật giáo, có sự cứu rỗi, phục sinh của Kyto giáo, có hiện sinh, có giải cấu trúc, có hiện tượng học, có tường giải học… Tôi cảm thấy cần chép ra đây một ví dụ điển hình (bài Tu xong) cho việc vượt qua mọi ranh giới thông thường, và cũng là bài tôi nghĩ hay nhất của tập thơ:
Tôi rủ con kiến đi tu
Nó bảo trọc lóc như sư sẵn rồi
Tôi rủ con ếch thiền ngồi
Nó khen tư thế vồ mồi rất hay
Tôi rủ tôi bấy lâu nay
Đi tu để biết chính mày là tôi
Để nhận ra đám mây trôi
Y như bao chuyện đã rồi. Là xong
Bài thơ vừa kết hợp được cái bi và cái hài, hai hình tượng liên quan đến kiến và ếch dễ làm ta bật cười, bởi khoảng cách chân lý giữa con người với động vật, giữa anh và tôi. Những hình tượng ấy cũng rất bình dân, đời thường. Bài thơ thể hiện chiều sâu tư tưởng về quan niệm tu tập không phải để giác ngộ chân lý, hay nhận thức thượng đế, mà là để minh giải, thông hiểu bản thể của chính mình. Hai câu cuối vừa xót xa, lại nhẹ nhàng ủi an. Những ai từng đi qua nhiều trải nghiệm thất bại, đớn đau và mất mát trong tình yêu mới có khả năng thấm được thơ miên di. Bởi tình yêu là thứ duy nhất trên cõi đời này mất đi thì mới còn đó, tan rã thì mới hiện hữu, quá khứ thì mới sống động đích thực. Chúng ta cần khổ đau để chứng nghiệm tình yêu, triết lý này gần gũi với hình tượng Chúa Jesus bị đóng đanh trên thập giá. Nhưng đau khổ vì tình yêu cần là một thứ đau khổ có tính mỹ học, cần được dẫn dắt bởi tư tưởng, hơn là những cơn đau thuần tuý vật lý. Do đó, cần nhận thức được mọi thứ trôi qua nhẹ nhàng như những đám mây là cách để tự giải thoát và tha thứ cho chính mình.
Lũ buồn hoang là câu chuyện của những kẻ bên lề, nằm ở ngoại biên đời sống. Chủ thể trữ tình là kẻ lang thang chăn thả lũ buồn hoang, và thế giới, những hình tượng trong thơ cũng là những tiểu tự sự. Nói như châm ngôn nổi tiếng của thi sĩ Dương Tường: “Tôi đứng về phe nước mắt”. Khi viết về bà của mình, tác giả cũng hoài niệm về những cảnh nghèo khó, đói ăn: “Bà đi vào lúc cả nhà thiếu an - Tiễn đưa chỉ có vành khăn - Và ba tấc đất lạnh tanh ngoài đồng” [Cuối năm thăm mộ bà]. Điều khá đặc biệt ở tập thơ này đó là rất nhiều những thi phẩm được viết cho ông bà, cha mẹ. Đây là tập thơ miên di hướng ngòi bút nghệ thuật về lại cội nguồn của thi ca, tức là những tình cảm gần gũi, thân thương, bình dị nhất của mỗi kiếp người. Thơ không cần quá lên gân, thơ trước tiên là sự rung động trước mỗi kiếp người lầm lũi, vô danh, nghèo đói mà trước tiên, họ là những người thân của chúng ta. Khi chủ thể trữ tình tự nhìn về mình, anh cũng tự nhận ra mình chỉ như cái giẻ rách: “Kể cả khi thấy mình như giẻ rách - Thì cuộc người vẫn cần tấm khăn lau” [Tâm sự với cái giẻ rách]. Bản thân những con vi trùng - các vi sinh vật gây hại vốn vô hình, vô dạng với mắt trần cũng có thể gây ra cho thi nhân sự đồng cảm, như một sự hướng xuống các thân phận bên lề: “Sống trong kháng thể của người - Con vi trùng cũng cả đời khổ, đau” [Tâm sự với con vi trùng]. Lũ buồn hoang do đó là một tập thơ giàu giá trị nhân văn và lòng trắc ẩn. Tính nhân đạo trong tập thơ không phải là một sự ban phát, mà là sự đồng cảm, đồng dạng của cái tôi trữ tình với ngoại giới.
2. Những mảng màu đối lập hay là cách vận hành cấu trúc thơ của miên di
Thơ miên di vốn phong phú, đa dạng trong thể thơ, chủ đề lẫn tư tưởng, triết lý. Đó là điểm mạnh và có thể cũng là điểm yếu của anh. Dường như không ranh giới nghệ thuật nào là anh không thể lĩnh hội và sở đắc, tuy vậy, thơ anh nhiều khi cũng mang giới hạn đó là sự thiếu thống nhất trong hệ thống nhằm tạo nên một phong cách độc sáng, riêng biệt. Trước đây, miên di rất sở trường và nổi danh với thơ lục bát, sau này anh lấn rộng ra nhiều thể thơ khác như thơ mini, thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ năm chữ… Tôi cứ hay băn khoăn đi tìm cấu trúc ngầm ẩn quy hồi thống nhất mọi bài thơ của miên di. Tức là cách thức chung anh vận hành thế giới chữ nghĩa của mình nhằm kiến tạo nên mọi thứ vốn sinh động, phức tạp, đa hình đa dạng ngoài kia. Cái cấu trúc ngầm ẩn này không dễ nhận ra, nhất là với một người đa giọng, thậm chí đa nhân cách như miên di. Sự đối lập giữa tưởng tượng với thực tại, giữa thơ và người, giữa bên trong với bên ngoài làm nên sự phức tạp của giới thi nhân. Một nhà thơ đời sống bụi bặm, lăn lộn thương trường như miên di vốn xa lạ với thế giới hàn lâm, chữ nghĩa thuần túy, thì sự tình lại càng phức tạp.
Vượt qua sự đa tạp về hình tượng, màu sắc, cảnh huống, ta có thể thấy cách miên di vận hành thế giới thi ca thống nhất ở một điểm: anh luôn xây dựng câu thơ, tứ thơ, khổ thơ và bài thơ bằng các cặp song hành, đối lập. Các cặp song hành đối lập này vốn dĩ mâu thuẫn, cách biệt nhau trong đời sống, nhưng được nhà thơ đặt lại cạnh nhau nên bật lên một tầng ý nghĩa thẩm mỹ mới nào đó. Hầu như bài thơ nào, khổ thơ nào cũng được vận hành dưới cấu trúc, lập luận này. Những câu khác không theo thì thông thường là câu dẫn dắt, hoặc không có nhiều giá trị nghệ thuật. Để bạn đọc tiện hình dung, tôi xin lập ra một bảng sau về cách tư duy chữ nghĩa đặc thù của miên di, trong đó hai vế A và B luôn có tính chất, ý nghĩa đối lập lẫn nhau, hoặc không hề tương hợp trong logic của thực tại đời sống (mọi trích dẫn trong tiểu luận này đều từ nguồn tập thơ Lũ buồn hoang mà tôi đã dẫn ở trên):
Những trích dẫn rời rạc ở trên có thể chưa làm ta hình dung rõ ràng tư tưởng, ý nghĩa của thơ miên di, nhưng nó làm bật lên cấu trúc ngôn ngữ. Chính cấu trúc đối lập, tương phản này làm nên bản sắc chữ và xu hướng mỹ học trong thơ của anh. Cách tư duy đặc thù về ngôn ngữ, và sau đó là tư duy về cuộc đời của miên di là đi tìm sự hiện diện của mặt đối lập này trong tồn tại của cái đối lập kia. Một lối tư duy biện chứng kiểu minh triết phương Đông, đặc biệt là của Âm - Dương gia. Thái dương sinh thiếu âm, và thái âm sinh thiếu dương. Tất cả vũ trụ này không thực sự chia rời, mà tồn tại trong một chỉnh thể liên tục chuyển hóa, tuần hoàn, bảo toàn năng lượng. Đó là nói về khoa học và triết học, còn về mỹ học, chính lối tư duy ngôn ngữ này tạo ra “cái khác” (the ontherness) trong thơ, mà theo Đỗ Lai Thúy, cái khác chính là biểu hiện của tư duy thơ hậu hiện đại. Dưới góc nhìn của triết học đa bội hậu hiện đại, miên di đã trình hiện những đau khổ, mất mát thực chất là hạnh phúc theo một cách khác, và ngược lại, hạnh phúc và vẹn toàn là mất mát, đau khổ theo một góc độ nào đó. Logic của lý trí, của khoa học tự nhiên luôn khác xa hiện thực của tâm lý, của tình yêu. Những phát hiện thú vị, sâu sắc ý nhị như thế này hẳn nhiên ai cũng dễ dàng đồng ý, nhưng để viết ra và gọi tên chính xác thì không dễ: “Em đẹp thì nỗi buồn xinh - thế thì đau khổ cuộc tình là vui” [Khi em có nghĩa là buồn]. “Anh đang đau khổ tươi cười - Ngồi nhìn hạnh phúc của người yêu xưa” [Những ngày vui ở nơi đâu?]. Rõ ràng cấu trúc đặt cạnh nhau những sự việc, đồ vật, cảm xúc, trạng huống đối lập đã tạo nên giá trị thẩm mỹ riêng trong thơ miên di, nó ám riết lấy đầu óc của người đọc. Lối cấu trúc này không hề phi lý, mà thực chất hoàn toàn logic trong thực tiễn của ái tình và xã hội. Cái tài của thi nhân là phát hiện ra những trạng huống mâu thuẫn, đối lập nhưng phổ biến ấy.
Thơ miên di mạnh về tính triết lý. Có thể nói, sức nặng triết lý làm nên giá trị của thơ anh chứ không phải cảm xúc trữ tình hay chức năng đời tư - thế sự, dụng hành xã hội hay khả năng xây dựng hình tượng. Chính cấu trúc đối lập, tương phản nói trên đã hỗ trợ rất nhiều cho chiều sâu triết lý trong thơ miên di. Những vầng thơ đẹp nhất, thực sự bật lên trên thi đàn nước ta của miên di luôn mạnh về triết lý nhân sinh. “Bao thuốc đầy còn bao làn khói khác - có hay diêm ở lần cháy cuối cùng” [Tâm sự với bao diêm], “Nhiều khi thấy mình như tiền lẻ - Chẳng đủ gì mà vẫn cứ là dư” [Định giá], “Về cùng rác kết bạn thân - về như hộp quẹt sau lần hết ga” [Lẽ chết màu xanh]… Cái tài của miên di đó là anh có khả năng liên tưởng, ẩn dụ mạnh. Từ những sự vật, sự việc vốn dĩ bình/tầm thường diễn ra thường nhật trong cuộc sống nhưng anh vẫn từ đó phát hiện ra trạng huống tinh thần nhân sinh đặc thù của con người. Tính triết lý trong thơ miên di không lên gân, đánh đố người đọc, không giả vờ cao sang khó hiểu để tỏ ra nguy hiểm, mà rất bình dị, như một người đã đạt đến cảnh giới giác ngộ giữa cuộc đời. Do vậy, có một điểm bạn đọc cần chú ý, những bài thơ mạnh nhất của anh về triết lý và tư tưởng lại thường là bài thơ ngắn nhất. Những bài này thường chỉ gói gọn phổ biến trong hai câu, với 16 đến 17 âm tiết, đúng như mô hình của chủ nghĩa cực hạn (minimalism) hay thơ Haiku của Nhật Bản đã đặt ra. Thơ của vài người làm thơ khác trên thi đàn (trong đó có cả tôi) cũng nhấn mạnh hay chuộng triết lý, nhưng chúng tôi thường “lắm lời” trong chữ nghĩa. Bài thơ càng dài mới có khả năng diễn đạt hết tính triết lý. miên di ở một cảnh giới, đẳng cấp cao hơn, anh đẽo gọt kiệm lời tới trình độ “ý tại ngôn ngoại”. Ví dụ: “Tôi có buồn vẫn vui hơn con phố - Đêm nào qua cũng dẫn kẻ tái tê về” [Tâm sự với phố khuya]. Cả bài thơ chỉ có hai câu, đúng bằng 17 âm tiết như thơ haiku, nhưng gợi ra biết bao suy ngẫm về phận người.
Cái hay trong sự triết lý của miên di đó là anh biết cười trong khi triết lý. Nói như Umberto Eco, đó là sự hiền minh trong một tinh thần biết cười. “Sống đi, rồi hiểu được rằng - Hột xoàn không quí bằng răng của mình” [Hột xoàn & răng], “lòng người như cái ti vi - chuyển qua kênh khác những khi đã rồi” [Check - in trên một đám mây]; “Tình yêu không có bảo hành - Lấy về có hỏng cũng đành thương nhau” [Bảo hành yêu]… Hàng loạt những câu thơ hai câu ấy đặt ra rất nhiều những suy ngẫm về tồn tại, về tình yêu, về hạnh phúc… nhưng đọc lên ai cũng có thể bật cười bởi sự gần gũi, tếu táo thú vị của người viết. Thơ ca đôi khi cũng như âm nhạc, cần sự bi lụy nhằm lôi kéo sự đồng cảm của người đọc. Nhạc sến Bolero dễ đi vào lòng người hơn nhạc bác học là vì thế. miên di không cần những chiêu thức sụt sùi ấy để đi lại trong thi giới. Thơ anh không lạc quan, hạnh phúc, nhưng cái đau khổ đến tận cùng trong miên di đạt đến cảnh giới mới. Anh không cần nước mắt để nói về nỗi đau, hận thù để nói về tan vỡ, xót xa khi thấy người yêu hay vợ cũ lập gia đình. “Mất là cách khác của trao - buồn là từng lúc giải lao của cười… - Ký ức là một gia tài - Ai đang phá sản bằng vài lãng quên” [Đọc lại mục lục chính mình]. Ở đây, ta có thể thấy rõ cách nhà thơ quan niệm về nhân sinh và tồn tại. Cũng chính ở đây, ta thấy rõ lối cấu trúc đối lập, tương phản đã làm nên sức mạnh triết lý như thế nào trong thơ miên di.
Lũ buồn hoang nếu chỉ riêng thơ đã đầy sức nặng của triết lý, nhưng dường như tác giả của nó vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa nói được hết ý tưởng của lòng mình, nên anh tiếp tục đưa vào thêm các “ghi chú rời rạc”. Những ghi chú rời rạc trong tập thơ của miên di thực chất không hề rời rạc, mà nó được liên văn bản với diễn ngôn thơ nhằm chuyển tải những thông điệp và triết lý của tác giả được rõ ràng hơn, sâu sắc hơn. Có nhiều câu xứng đáng là “danh ngôn”, chỉ tiếc rằng nhà thơ chưa là vĩ nhân mà thôi. Ví dụ: “Nỗi buồn là cái đến sau, ngoại phạm với đau khổ và đến để xoa dịu khổ đau. Nên hãy vui khi cảm thấy sao lòng buồn thế”, rất gần gũi với những câu thơ như: “Nên vắng buồn liệu hạnh phúc có vui” [Hạnh phúc không vui]. Nhiều câu triết lý rất tếu táo, rất giống với phong cách triết lý vui trong thơ anh: “Đàn ông, sau khi bị phụ nữ hạ gục rồi mà cứ tưởng mình bắt đầu tấn công”. “Chỉ nơi tình yêu chân thành mới có nghĩa cử phụ bạc”. “Đôi khi, đồng cảm giống như người mù tìm người mù khác làm bầu bạn, trong khi cần người sáng mắt để dẫn đường”. “Trong tình yêu, người ta chỉ hạnh phúc với ai có thể làm mình đau khổ”… Lối cấu trúc ngôn ngữ và lập luận kiểu đối lập tương phản bất ngờ này có lẽ không xa lạ gì với bạn đọc. Do đó, với miên di, diễn ngôn thơ ca và diễn ngôn văn xuôi là rất gần gũi. Chất thơ, tính thơ được biểu đạt không phải qua hình thức của thể loại, mà chủ yếu được biểu đạt thông qua tính triết lý và bản chất trữ tình của nó.
3. Bản thể như một cuộc kiếm tìm
Đề tài chủ yếu trong thơ miên di, không phải là tình yêu, cũng không hẳn là hoài niệm, mà chính là những cuộc truy vấn bản thể liên miên. Chính trong đề tài này, thơ miên di thể hiện được tất cả những gì vốn là thế mạnh nhất của anh, tính triết lý, chiều sâu nhân bản, tính nhân văn, tính phản tư hay tự giễu. Loài người là một sinh vật có tư tưởng, và từ khi có tư tưởng, nó đã không thôi truy vấn, khắc khoải cắt nghĩa cái tôi của mình. Thể xác bên ngoài trở nên tầm thường so với thế giới tinh thần. Trong thế giới tinh thần, tôi là ai là một câu hỏi vĩnh hằng có tính chất vấn đề cơ bản của triết học. Những nhà thơ lớn vốn dĩ cũng là những nhà tư tưởng. Tất yếu, ngoài việc quan tâm đến thế giới, họ phải hướng vào nội giới để tìm hiểu bản thể cái tôi của mình.
Thơ miên di gần như là cuộc truy vấn thường trực bản ngã. “Tôi rủ tôi bấy lâu nay - Đi tu để biết chính mày là tôi” [Tu xong]. Tìm hiểu, nhận thức thế giới là một quá trình đầy kiên trì, gian nan, nhưng hiểu và nhận thức về bản ngã của mình còn là quá trình dài hơn và khó khăn hơn bội phần. Ở đấy, mỗi bản thể phải đối diện với sự vô minh, sự kiêu căng ngạo mạn và những rào cản do chính mình dựng nên. Hiểu được người đã khó, hiểu được mình còn khó hơn. Hiểu được mình là ai, bỏ qua cái tự ngã, để thực sự diệt ngã thành công là công việc chỉ có thể tiến hành được ở những bậc chân tu, cư sĩ. Triết học Phật giáo do đó, không hiện lên trên bề mặt thơ như triết lý Kyto giáo trong thơ miên di, nhưng lại bàng bạc và nằm ở chiều sâu của tư tưởng thơ anh. “Chỉ tôi thì lại bị quên gặp mình - Tôi gặp tôi ở dáng hình - Hay tôi là ở những tình thế tôi - Gặp tôi trên chỗ tôi ngồi - Hay gặp ở chỗ đã rời & qua - Tôi gần gặp gỡ tôi xa - Nơi không tôi đấy nhưng mà tôi đây” [Tìm gặp vô ngã]. Lối thơ “hũ nút”, lập luận vòng vo này thực chất là quá trình dài chứng ngộ sau một thời gian sống nghiệm trải của thi sĩ. Tôi luôn là tôi nhưng đồng thời tôi luôn là người khác, luôn xa lạ với chính mình. Kiếm tìm, hiểu biết và tiêu diệt bản ngã là một hành trình gian nan, không phải ai cũng có thể đi và đến. Tất cả chúng ta, khi còn sống trên cuộc đời đa phần vẫn chỉ đang trên đường tu tập để làm được điều đó. Cái tôi khó kiếm tìm, thông hiểu, vì nó vô hình, nó lại ở bên trong mỗi chúng ta, nó lại chỉ đạo chúng ta tư duy. “Biết đâu gặp một con ma - Tôi rất sợ nó, hóa ra là mình - Hình như tôi là vô hình - Đựng trong một cái lọ bình xác thân” [Tìm gặp vô ngã]. Do đó, thực sự miên di phải phân thân thành công, đứng bên ngoài thân xác nhìn vào nội giới mới có thể minh giải bản thể của chính mình.
Hiểu được chính mình không phải để vinh danh hay đề cao cái tôi, mà miên di luôn muốn diệt ngã: “Có con sông đương nhiên trôi - Và tôi hiện diện như tôi không hề” [Một bất chợt]. Hoặc trong một ví dụ khác, nhà thơ đã tự “cất mình” như một biểu hiện khác của việc diệt ngã: “Chạm vào tuổi bốn mươi vào ngày bỏ thuốc - cất chính mình như cái gạt tàn đã thừa ra” [Tâm sự với tuổi bốn mươi]. Nhà thơ thường xuyên tự vấn, tự nói chuyện với chính mình như một hình thức phản tư. Trong những hình thức ẩn dụ khác, nhiều khi miên di không trực tiếp đề cập đến bản ngã, nhưng thông qua hệ thống hình tượng, ta vẫn thấy cuộc đấu tranh nội tâm thường trực và đau đáu trong anh: “Đêm nằm thương những dòng sông - Tự cào xói lở ở trong lòng mình” [Tự cào].
Những bài thơ được viết ra dưới tinh thần đối thoại cũng là những dạng thức tự vấn bản thể. Chủ thể trữ tình tạm thời phân thân để nói chuyện với một bạn đọc giả định trong thơ, để bày tỏ lòng mình như một sự minh giải bản thể: “Nhiều lúc tưởng chẳng còn ai là bạn - loay hoay đành phải gọi chính tên mình… - Thương vợ nó mà tao không dám tới - sợ bạn mình sau cái chết vẫn còn đau” [Bạn]. Đây là những câu thơ rất đời, rất nhân văn, và cũng đầy cay đắng. Chủ thể trữ tình từng yêu một cô gái từ thuở hoa niên, nhưng cô gái này bị người bạn thân lấy làm vợ mất. Người bạn ấy không may mất sớm, mặc dù chủ thể trữ tình vẫn luôn nhớ nhung, yêu thương người con gái cũ, nhưng anh ta không hề vượt qua ranh giới bởi sợ người bạn buồn dưới chín suối. Những câu thơ đối thoại như thế này thực chất là độc thoại, người thơ tự trò chuyện với chính mình để hiểu mình nhiều hơn, để sống thực sự là người hơn. Có thể thấy miên di mặc dù khá thành công trên nhiều lĩnh vực dưới góc độ là một con người, đặc biệt là một người đàn ông. Anh có ngoại hình, râu ria, gia đình hạnh phúc, tài sản hay sự nghiệp xông xênh, đáng để người khác phải ngưỡng mộ, hoặc là ghen tỵ, nhưng cuộc sống tinh thần của anh không hề yên ổn như mọi người vẫn tưởng. Thẳm sâu trong miên di luôn có những cuộc bạo động tâm lý và tinh thần, cái buồn cứ hoang hoải, và điều này hiện rõ trên những dòng thơ. Anh cô đơn, đặc biệt là cô đơn trong cõi người đông đúc và chật chội, giữa những lời tán dương, xun xoe hoặc miệt thị, đố kỵ của cõi người. Do vậy, anh luôn có xu hướng tự nói, tự bày tỏ với mình trong thơ: “Tụi mình như những mẩu nhang - Bao nhiêu khát vọng cũng tàn khói thôi - Cùng nhau như mộ ven đồi - Lô nhô yên tịnh đợi đời lãng quên - Từng ngôi mộ vẫn có tên - Mà vô danh giữa nổi nênh thế trời” [Vô nghĩa].
Cuối cùng, trong cuộc hành trình truy vấn vĩnh hằng bản thể, miên di đã đạt ngộ tất cả thế giới là vô thường, là sắc sắc không không. Những câu thơ trong bài Vô nghĩa làm tôi cứ nhớ mãi đến những vầng thơ của Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc: “Trăm năm còn có gì đâu - Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Đạt đến cảnh giới ấy, con người ta sẽ sống khác đi, thơ vì thế, cũng không nhiều sân si, câu nệ tới các hình thức, diễn giải tân kì. Do đó, có thể thấy giới hạn của tập thơ đó là có khá nhiều bài cổ điển, không chứa nhiều cách tân về mặt thi pháp và hình thức. Có lẽ miên di ý thức được điều đó, nhưng anh chấp nhận tất cả để thơ được quay về với cái bản lai diện mục nguyên thủy. Đọc cả tập thơ dày, tôi thấy có vài cách tân về mặt ngôn ngữ và hình thức đáng chú ý. Ví dụ như bài thơ được viết dưới hình thức đối thoại, tựa đề của cả bài thực ra cũng là một câu thơ (mở đầu cho bài thơ) nằm trong chỉnh thể, ví dụ:
Tôi đang có sẵn trên đời (câu tựa đề in đậm - YT)
Mà sao em lại làm người cô đơn
trong tủ áo cứ đầy hơn
mà sao vẫn thấy trống trơn trong buồn
Tuy nhiên, nhìn chung những cách tân về mặt hình thức ấy là không phổ biến, không đạt đến độ có ý thức hoặc tương xứng với những giá trị nội dung. miên di có lẽ viết Lũ buồn hoang không phải để cho người khác, để khẳng định tuyên ngôn nào đó trong nghệ thuật, mà anh viết cho mình, để hiểu hơn về chính mình, qua thơ.
4. Cội nguồn thi ca hay là cảm thức “lá diêu bông”
Trong một tiểu luận khác, được khảo cứu dưới góc độ phân tâm học, tôi đã từng chỉ ra thơ Đàm Huy Đông trong giai đoạn “hậu áo trắng” là thứ thơ tan vỡ, thế giới đã sụp đổ bởi vì người yêu cũ (em) đã “đi lấy chồng”. Đọc thơ miên di trong Lũ buồn hoang, điều làm tôi băn khoăn, khắc khoải đó là đi tìm cội nguồn cảm xúc thi hứng của nhà thơ. Điểm then chốt đối với mọi thi sĩ, nếu ai đã từng cầm bút sáng tác thơ thì đều biết, không phải là thể loại, nền tảng triết - mỹ, không phải là đề tài, chủ đề hay cấu trúc ngôn ngữ (những vấn đề tôi đã phân tích ở trước), mà chính là thi hứng. Không có thi hứng, nhà thơ sẽ không ngồi xuống bàn để viết nên những con chữ. Chiếc xe cần một nút khởi động chìa khóa để bắt đầu đi, bài thơ dẫu trăn trở, ấp ủ rất lâu về mặt ngữ nghĩa, cấu tứ, nhưng thiếu một cảm xúc dẫn đường, nó sẽ không ra đời.
Nhà thơ có thể là người thành đạt trong nhiều lĩnh vực, nhưng nhất định phải là người thất bại trong tình cảm, mà đặc biệt là thất bại trong tình yêu thì mới có thể viết thơ đích thực. Sự thất bại trong tình yêu mở ra sự thành công trong thi giới. Cái giá mà những thi nhân phải trả luôn đầy đắng cay và nước mắt. Trong những cung bậc đau khổ vì tình yêu, có nỗi đau nào lớn hơn việc phải chứng kiến bạn gái, hay bi kịch hơn, là vợ đi lấy chồng. Lũ buồn hoang là một tập thơ đầy ắp nhiều cung bậc tình cảm gia đình, cũng như các chủ đề đời tư thế sự, nhưng xúc cảm thường trực, nên thơ nhất vẫn là sự đau đớn khi người yêu/vợ đi lấy chồng - một sự ra đi vĩnh viễn, không thể nào khắc phục. Sự hờn giận, hiểu lầm, cãi vã, xa cách, chia tay… hay thậm chí ẩu đả, nguyền rủa, ly hôn trong tình yêu cũng đầy nước mắt, nhưng dù sao nó vẫn còn cơ hội có thể khắc phục, sửa chữa được. Giận hờn, hiểu lầm rồi sẽ nguôi, xa rồi sẽ gần, vết thương hay ẩu đả sẽ lành, ly hôn, ly thân vẫn có thể tái hợp, quay về. Nhưng một khi bạn gái/vợ quyết định lập gia đình với người đàn ông khác, thế giới sẽ vụn vỡ vĩnh viễn, vĩnh hằng không bao giờ có thể khắc phục. Từ nay, đôi môi người khác, thân thể người khác, ái ân với người khác sẽ thay thế anh mãi mãi trong cuộc đời của em. Chính vì thế, cảm thức “em đi lấy chồng” (em bao gồm cả vợ và bạn gái) là một chấn thương tinh thần tàn khốc, không thể thỏa thuận và chữa lành trong cuộc đời, trái tim của mỗi thi nhân. miên di không nằm ngoài quy luật đó.
Đọc lại Lũ buồn hoang, ta có thể thấy gần như bài nào cũng có gắn với xúc cảm “em đi lấy chồng” dù ẩn tàng hay phát lộ. Theo thống kê không đầy đủ của tôi, có đến mười bài thơ cảm thức này chi phối rõ ràng lên bề mặt văn bản, ta có thể kiểm chứng được một cách minh bạch. Những bài còn lại, trừ những bài tình cảm gia đình hay truy vấn bản thể, đều ít nhiều có liên đới đến cảm thức chung này. Lũ buồn hoang, do đó, cội nguồn của cảm thức buồn là do “em đã đi lấy chồng” hoặc những dạng thức biến thể khác nhau của nó (có người yêu mới). Ở đây, tôi không dùng thuật ngữ người yêu cũ hay vợ cũ, bởi trong tình yêu và cả hôn nhân, có những điều mất đi, tan vỡ nhưng không hề cũ kĩ. Ngược lại, những quan hệ, tình cảm này chỉ thực sự sống động, nguyên nghĩa khi ta đánh mất. Ta có một bảng thống kê như sau để làm rõ vấn đề (mọi nhấn mạnh trong tiểu luận này đều là của tôi - YT):
Với sự xuất hiện dày đặc của cảm thức “em đi lấy chồng”, mà nhân vật“tôi” định danh là cảm thức “lá diêu bông” như trong ẩn ức sáng tạo của Hoàng Cầm, ta có thể nhận ra cội nguồn thi hứng của miên di. Cuộc thất bại cuối cùng trong thơ anh, và cũng là trong cuộc đời miên di là tình yêu bị đánh mất. Dĩ nhiên, cuộc truy vấn em là ai và em có thực sự hiện hữu hay không, em đã đi lấy chồng như thế nào là không cần thiết. Em có thể là một người, mà cũng có thể là nhiều người. Vợ đi lấy chồng có thể là thực tiễn nhà thơ phải đối mặt, cũng rất có thể là dự cảm, hoặc sự quan sát của anh với những số phận tình yêu xung quanh mình. Nhưng điều ta dễ dàng nhận ra, đó là cảm thức “em lấy chồng” đã để lại một dư chấn tinh thần khủng khiếp trong cơ cấu tâm thần bộ của thi nhân. Điều này khiến hắn không thể yên ổn dù theo cách nào đi chăng nữa, dẫu bia rượu, ái ân hay những cuộc tình khác có diễn ra. Do đó, nỗi đau ấy thôi thúc thi nhân đi tìm sự giải thoát trong chữ nghĩa, qua thơ. Nỗi đau của miên di liên quan đến cảm thức “em lấy chồng” không nằm trên bề mặt của ý thức, mà chìm rất sâu vào trong vô thức sáng tạo của tác giả. Do đó, từng câu thơ, lời thơ khi viết ra cứ tự nhiên hiển lộ với chúng ta nỗi đau này. Có lẽ, ngay chính bản thân miên di cũng không mường tượng được lại có nhiều bài thơ có chung cảm thức, cùng nằm trong một tập sách như thế. Bởi vì, tôi tin rằng, nỗi đau này của anh nằm sâu trong vô thức sáng tạo như một chấn thương tinh thần. Nỗi đau ấy là bất khả giải và sẽ còn dằn vặt anh cho đến cuối đời, không chỉ một lần, và do đó, ta có quyền được tin rằng, miên di sẽ còn hành trình lâu dài với thế giới sáng tạo thi ca. Thế giới ấy vốn dĩ phù phiếm, hư vô, nhưng cũng là nơi thanh tao vượt qua/ra mọi giới hạn tầm thường của kiếp người bội bạc.
Khởi viết từ mồng 1, hoàn tất mồng 7 tết Kỷ Hợi, 2019.
Y.T
(TCSH362/04-2019)
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.