Mèo Huế

15:39 29/01/2011
ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?
Từ điển tiếng Huế(1) của Bùi Minh Đức là một ấn phẩm có vấn đề về ngôn ngữ học và từ điển học, nhưng là nguồn tư liệu quý về “người Huế, văn hóa Huế”. Ở mục mèo, tác giả trích dẫn: “phong dao Huế”, rồi “đồng dao Huế”.

Mèo ngoao cắn cổ ông thầy

Ông thầy bắt được một bầy mèo ngoao

Trích dẫn hai lần, có lẽ vì thích thú; một lần gọi là phong dao, là chủ ý nhấn mạnh tính cách địa phương; sau đó gọi là đồng dao, ngụ ý câu hát vui chơi của trẻ con, không có ý nghĩa gì. Tác giả nghe vậy, nhớ vậy và ghi lại như vậy, là đúng với tính chất văn chương truyền khẩu. Chúng ta không thể dựa vào văn bản nọ, ấn bản kia để nói rằng thoại này đúng, thoại kia sai. Ai muốn tìm hiểu câu hát, thì có thể thấy nó trong tuyển tập dày cộm 2800 do nhóm Nguyễn Xuân Kính(2):

Mèo ngao cắn cổ con cầy

Con cầy vật chết cả bầy mèo ngao

Tranh Bửu Chỉ

Câu này rõ nghĩa, nhưng lại… thường thôi: cảnh mèo chó phân tranh là thường tình “như mèo với chó”, nó không độc đáo như ông thầy vô nghĩa trong câu “đồng dao xứ Huế”; ông Bùi sáu lần viết mèo ngoao thay vì ngao. Chữ ngoao là động từ tả việc, tiếng mèo kêu (để gọi người) còn ngao là tính từ, chỉ giống mèo lớn, gần với mèo rừng. Trong Từ điển tiếng Huế, ông Bùi phát âm theo giọng “Huế mình: noái, goại” mèo ngao là mèo ngoao, còn hơn nhiều từ điển tiếng Việt hiện hành, …không có từ ngao! Nói chuyện về người Huế, tiếng Huế, bao giờ cũng có cái vui. Ông Bùi còn dẫn “vè Huế”:

Dấu che bưng bít bấy chầy

Nay đà rõ mặt một bầy mèo ngoao

Có lẽ là sản phẩm địa phương thật, vì tìm nơi khác không thấy. Còn câu “hò Huế”:

Con mèo không rách, răng kêu mèo vá,

Con cá không thờ, răng gọi cá linh?

là lối hát đối đáp, chơi chữ, thịnh hành nhiều nơi phía Nam, nhưng thoại này với từ răng, thổ ngữ, mang chất Bình Trị Thiên rõ nét.

Đến câu này thì toàn quốc nhiều người biết:

Con mèo mà trèo cây táo

Bà gia lơ láo, mắng chửi nàng dâu.

Miền Trung, có lẽ là vùng Trị Thiên đã biến chế:

Con mèo trèo lên cây táo,

Mồ hôi chưa ráo, áo cụt chưa khô,

Dầu mà eng có nơi mô,

Em nguyền thác xuống ao hồ trọn danh.

Câu thơ chất phác, tha thiết, tình tứ, gợi nhớ không gian và tâm tình Huế. Và câu hò giã gạo:

Gặp nhau chưa ráo mồ hôi

Chưa tan cối gạo đã rời nhau ra.

Với từ ngữ địa phương, dân gian Trung bộ đã sáng tạo những hình ảnh xuất sắc:

Mèo thấy mỡ mèo thèm chết giãy

Mỡ thấy mèo mỡ nhảy tê tê.


Tình mẹ - tranh Thanh Trí


Mèo thấy mỡ là tục ngữ ẩn dụ sự thèm muốn vật chất, thường là nói đàn ông trước nhan sắc. Thèm chết giãy, tiếng địa phương, nghĩa là thèm đến cùng cực, đến rãy chết như con cá giẫy giụa trên thớt. Con mèo được nhân cách hóa trong hình ảnh sống động. Câu sau, thủ pháp nhân cách hóa được đẩy xa hơn, táo bạo, tân kỳ hơn: mỡ thấy mèo, ngụ ý hóm hỉnh vì đối ngẫu với câu trên, người nghe hiểu: cục mỡ vô giác vô tri đây là người phụ nữ. Nhảy tê tê, nghĩa địa phương, là rãy rụa theo phản xạ của con cá tươi sắp chết, tưng tưng trong rổ cá. Nó không có nghĩa “mất cảm giác” như đã ghi trong các từ điển, kể cả của ông Bùi Minh Đức, nó cũng không có nghĩa tê tái, xót xa như trong thơ Thâm Tâm:

Ngoài phố mưa bay: xuân bốc rượu

Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê

Ới ơi bạn tác ngoài trôi giạt

Chẳng đọc thơ ta tất cũng về

               (Vọng nhân hành, 1944)

Ông Bùi minh Đức mách: người Huế chuộng mèo tam thể: “có ba màu, rất óng ả. Loại mèo người Huế rất thích nuôi trong nhà”. Dễ hiểu thôi, vì vai trò tiên khởi của mèo khi được con người thuần hóa là bắt chuột và những loài gậm nhấm. Dần dà, ngày một ngày hai, những gia đình sung túc mới nuôi mèo vừa để diệt chuột, vừa làm bầu bạn. Huế trong một thời gian dài, là đế đô, thành phố hành chính. Các gia đình hoàng phái và quan lại, công chức, nuôi mèo làm cảnh, mua vui, làm bầu bạn, nhất là những lúc bài bạc, đánh tứ sắc, đổ xâm hường.

Nghe nói vua triều Nguyễn cũng có người nuôi mèo, do đó có từ mèo ngự.

Xuân Diệu có thời ở Huế; năm 1937, anh từ Hà Nội vào, học năm cuối cùng bậc Tú Tài. Ở Huế không lâu, nhưng anh chịu ảnh hưởng sâu đậm không gian đế đô, và đã viết nhiều đoản thiên, ba năm sau in thành tập truyện Phấn Thông Vàng(3) với những câu nổi tiếng:

“Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng, tôi khởi sự đi trong ánh sáng, và tôi tới lần trong bóng tối, tợ hồ bên thành phố Huế là ngày, bên Nam Giao là đêm” (bài Thương Vay).

Đặc biệt có chương “Chó mèo hoang” - không nhất thiết của một địa phương nào, nhưng ở đây, con mèo có nét Huế, mà Xuân Diệu mô tả rất tinh: “quý phái chứ không trưởng giả”:

“Dầu khổ sở thế nào, những con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quí phái - quí phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có cái duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo”.

“Những bà hoàng sẩy ngôi, cung nữ hết thời”
sống lẩn quẩn trong các cung, các phủ, hay trong dân gian, đều có cử chỉ, ngôn ngữ tạo nên phong cách Huế. Làm sao phân biệt đâu là quý phái, đâu là trưởng giả? Có lẽ Xuân Diệu suy diễn từ tiếng Pháp đối lập quí phái (noblesse) thuộc dòng họ quý tộc, nhiều đời, với trưởng giả (aristocratie) là những nhà giàu, nhưng chưa kịp có phong cách sang trọng. Molière đã chế nhạo lớp người này qua vở kịch Trưởng giả học làm sang.

“Và hễ thong thả chúng liền tỉ mỉ tắm gội, những cơn đói không làm chúng lành tính sạch sẽ”;
chính xác là trạng từ tỉ mỉ nhắc đến các mệnh phụ xứ Thần kinh trang điểm công phu, có khi lòe loẹt, dù là cao tuổi.

Mèo trèo cau - tranh Thanh Trí

Xuân Diệu còn tả cách đi đứng của loài mèo, cùng giống với con hổ, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, trong thơ Thế Lữ, mà ta có thể nói gọn là “yểu điệu”, mà ông Bùi Minh Đức cho là “đặc tính của xứ Huế” khi trích dẫn Nam Trân:

Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng

Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

Chèo đò mà cũng phải “yểu điệu”, thì phải là người Huế, dù ở đây, người điệu nhiều hơn là người yểu điệu. Nhớ thơ Nguyễn Bính mô tả thiếu nữ Huế:

Loanh quanh xóm vắng đường gần,

Ấy ai làm dáng phi tần với ai.

Con sông không rộng mà dài,

Con đò không chở những người chính chuyên.

                                                (Vài nét Huế, 1941)

Lại còn hai chữ đủng đỉnh. Trong bài Thương vay nói trên, Xuân Diệu có tả tầng lớp người nghèo chung quanh đế đô: “Đời quanh Huế cũng đủng đỉnh như đời giữa Huế, người nghèo ở đây không cực hẳn, không lam lũ, không khốn cùng”.

Sự thật thì Huế như bao nhiêu thành phố khác, cũng lắm người nghèo. Nhưng sống chốn đế đô, giấy rách giữ lấy lề, họ che giấu vẻ lam lũ dưới bề ngoài bao giờ cũng chỉnh tề, tươm tất.

Còn “đủng đỉnh” thật sự là cung cách của giới quan liêu, hay các mụ các mệ, con vua cháu chúa. Lá ngọc cành vàng.

Nguyễn Công Trứ đã có lần mô tả quan lại triều đình Huế:

Dù tía võng xanh văn đủng đỉnh

Gươm vàng thẻ bạc võ nghênh ngang

Cảnh quan trường phong kiến ấy từ lâu đã hạ màn. Không biết xứ sông Hương núi Ngự ngày nay còn ai nghênh ngang, còn ai đủng đỉnh nữa hay không.

*

Dùng từ Mèo Huế là ngoa ngữ. Mèo là súc vật độc lập tự do, lúc chán ở với người thì tự giải phóng làm mèo hoang, chịu tất tả, đói lạnh như Xuân Diệu đã mô tả kỹ và hay.

Trong một thời gian lịch sử dài, mèo ít lệ thuộc vào kỷ cương loài người; nhưng khi những tiến bộ khoa học, kỹ thuật cải tiến đời sống vật chất, thì con mèo cũng có thừa hưởng. Con mèo bầu bạn, nhiều sắc lông lộng lẫy ngày nay không còn là con mèo mướp bắt chuột mà Nguyễn Trãi đã mô tả. Nó biến đổi không phải do chính sách gia huấn, mà do con người lai giống, tạo ra giống mèo mới, như giống “mèo Bắc kỳ”, Tonkinois, ngày nay không can dự gì đến con mèo Nguyễn Trãi, mà lai giống từ mèo Xiêm với mèo Miến Điện, khoảng 1950 tại Mỹ. Gọi là Bắc kỳ cho có âm hưởng viễn đông và viễn xứ. Mai kia mốt nọ, trên thị trường mèo thế giới nếu có xuất hiện con “Mèo Huế” e cũng là mạo danh để khuyến mãi.

Bài này viết vui chơi ngày Tết, đã được nhiều bạn Huế góp ý và các họa sĩ Huế, trong và ngoài nước minh họa, tác giả chân thành và thân thiết cảm ơn. Có thể gọi là… Mèo giao lưu.

Cuối cùng cũng để mua vui, xin ra câu đối, đặc biệt cho người Huế vốn sính chữ nghĩa:

Tết Mèo, bấm chuột gửi meo mèo chuột.


Xuân Tân Mão, 2011

Đ.T
(264/2-11)




---------------------

(1) Bùi Minh Đức,
Từ điển tiếng Huế, nxb Văn Học, 2004.

(2) Nguyễn Xuân Kính chủ biên:
Ca dao người Việt, nxb Văn Hóa, 1995.

(3) Xuân Diệu,
Phấn Thông Vàng, 1939, trích trang 16-19-83, theo nxb Thanh Niên, 1989. Có in lại trong Xuân Diệu, Tuyển Tập II, nxb Văn Học, 1987.






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.