Từ điển tiếng Huế(1) của Bùi Minh Đức là một ấn phẩm có vấn đề về ngôn ngữ học và từ điển học, nhưng là nguồn tư liệu quý về “người Huế, văn hóa Huế”. Ở mục mèo, tác giả trích dẫn: “phong dao Huế”, rồi “đồng dao Huế”. Mèo ngoao cắn cổ ông thầy Ông thầy bắt được một bầy mèo ngoao Trích dẫn hai lần, có lẽ vì thích thú; một lần gọi là phong dao, là chủ ý nhấn mạnh tính cách địa phương; sau đó gọi là đồng dao, ngụ ý câu hát vui chơi của trẻ con, không có ý nghĩa gì. Tác giả nghe vậy, nhớ vậy và ghi lại như vậy, là đúng với tính chất văn chương truyền khẩu. Chúng ta không thể dựa vào văn bản nọ, ấn bản kia để nói rằng thoại này đúng, thoại kia sai. Ai muốn tìm hiểu câu hát, thì có thể thấy nó trong tuyển tập dày cộm 2800 do nhóm Nguyễn Xuân Kính(2): Mèo ngao cắn cổ con cầy Con cầy vật chết cả bầy mèo ngao
Dấu che bưng bít bấy chầy Nay đà rõ mặt một bầy mèo ngoao Có lẽ là sản phẩm địa phương thật, vì tìm nơi khác không thấy. Còn câu “hò Huế”: Con mèo không rách, răng kêu mèo vá, Con cá không thờ, răng gọi cá linh? là lối hát đối đáp, chơi chữ, thịnh hành nhiều nơi phía Nam, nhưng thoại này với từ răng, thổ ngữ, mang chất Bình Trị Thiên rõ nét. Đến câu này thì toàn quốc nhiều người biết: Con mèo mà trèo cây táo Bà gia lơ láo, mắng chửi nàng dâu. Miền Trung, có lẽ là vùng Trị Thiên đã biến chế: Con mèo trèo lên cây táo, Mồ hôi chưa ráo, áo cụt chưa khô, Dầu mà eng có nơi mô, Em nguyền thác xuống ao hồ trọn danh. Câu thơ chất phác, tha thiết, tình tứ, gợi nhớ không gian và tâm tình Huế. Và câu hò giã gạo: Gặp nhau chưa ráo mồ hôi Chưa tan cối gạo đã rời nhau ra. Với từ ngữ địa phương, dân gian Trung bộ đã sáng tạo những hình ảnh xuất sắc: Mèo thấy mỡ mèo thèm chết giãy Mỡ thấy mèo mỡ nhảy tê tê.
Mèo thấy mỡ là tục ngữ ẩn dụ sự thèm muốn vật chất, thường là nói đàn ông trước nhan sắc. Thèm chết giãy, tiếng địa phương, nghĩa là thèm đến cùng cực, đến rãy chết như con cá giẫy giụa trên thớt. Con mèo được nhân cách hóa trong hình ảnh sống động. Câu sau, thủ pháp nhân cách hóa được đẩy xa hơn, táo bạo, tân kỳ hơn: mỡ thấy mèo, ngụ ý hóm hỉnh vì đối ngẫu với câu trên, người nghe hiểu: cục mỡ vô giác vô tri đây là người phụ nữ. Nhảy tê tê, nghĩa địa phương, là rãy rụa theo phản xạ của con cá tươi sắp chết, tưng tưng trong rổ cá. Nó không có nghĩa “mất cảm giác” như đã ghi trong các từ điển, kể cả của ông Bùi Minh Đức, nó cũng không có nghĩa tê tái, xót xa như trong thơ Thâm Tâm: Ngoài phố mưa bay: xuân bốc rượu Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê Ới ơi bạn tác ngoài trôi giạt Chẳng đọc thơ ta tất cũng về (Vọng nhân hành, 1944) Ông Bùi minh Đức mách: người Huế chuộng mèo tam thể: “có ba màu, rất óng ả. Loại mèo người Huế rất thích nuôi trong nhà”. Dễ hiểu thôi, vì vai trò tiên khởi của mèo khi được con người thuần hóa là bắt chuột và những loài gậm nhấm. Dần dà, ngày một ngày hai, những gia đình sung túc mới nuôi mèo vừa để diệt chuột, vừa làm bầu bạn. Huế trong một thời gian dài, là đế đô, thành phố hành chính. Các gia đình hoàng phái và quan lại, công chức, nuôi mèo làm cảnh, mua vui, làm bầu bạn, nhất là những lúc bài bạc, đánh tứ sắc, đổ xâm hường. Nghe nói vua triều Nguyễn cũng có người nuôi mèo, do đó có từ mèo ngự. Xuân Diệu có thời ở Huế; năm 1937, anh từ Hà Nội vào, học năm cuối cùng bậc Tú Tài. Ở Huế không lâu, nhưng anh chịu ảnh hưởng sâu đậm không gian đế đô, và đã viết nhiều đoản thiên, ba năm sau in thành tập truyện Phấn Thông Vàng(3) với những câu nổi tiếng: “Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng, tôi khởi sự đi trong ánh sáng, và tôi tới lần trong bóng tối, tợ hồ bên thành phố Huế là ngày, bên Nam Giao là đêm” (bài Thương Vay). Đặc biệt có chương “Chó mèo hoang” - không nhất thiết của một địa phương nào, nhưng ở đây, con mèo có nét Huế, mà Xuân Diệu mô tả rất tinh: “quý phái chứ không trưởng giả”: “Dầu khổ sở thế nào, những con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quí phái - quí phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có cái duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo”. “Những bà hoàng sẩy ngôi, cung nữ hết thời” sống lẩn quẩn trong các cung, các phủ, hay trong dân gian, đều có cử chỉ, ngôn ngữ tạo nên phong cách Huế. Làm sao phân biệt đâu là quý phái, đâu là trưởng giả? Có lẽ Xuân Diệu suy diễn từ tiếng Pháp đối lập quí phái (noblesse) thuộc dòng họ quý tộc, nhiều đời, với trưởng giả (aristocratie) là những nhà giàu, nhưng chưa kịp có phong cách sang trọng. Molière đã chế nhạo lớp người này qua vở kịch Trưởng giả học làm sang. “Và hễ thong thả chúng liền tỉ mỉ tắm gội, những cơn đói không làm chúng lành tính sạch sẽ”; chính xác là trạng từ tỉ mỉ nhắc đến các mệnh phụ xứ Thần kinh trang điểm công phu, có khi lòe loẹt, dù là cao tuổi.
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo Chèo đò mà cũng phải “yểu điệu”, thì phải là người Huế, dù ở đây, người điệu nhiều hơn là người yểu điệu. Nhớ thơ Nguyễn Bính mô tả thiếu nữ Huế: Loanh quanh xóm vắng đường gần, Ấy ai làm dáng phi tần với ai. Con sông không rộng mà dài, Con đò không chở những người chính chuyên. (Vài nét Huế, 1941) Lại còn hai chữ đủng đỉnh. Trong bài Thương vay nói trên, Xuân Diệu có tả tầng lớp người nghèo chung quanh đế đô: “Đời quanh Huế cũng đủng đỉnh như đời giữa Huế, người nghèo ở đây không cực hẳn, không lam lũ, không khốn cùng”. Sự thật thì Huế như bao nhiêu thành phố khác, cũng lắm người nghèo. Nhưng sống chốn đế đô, giấy rách giữ lấy lề, họ che giấu vẻ lam lũ dưới bề ngoài bao giờ cũng chỉnh tề, tươm tất. Còn “đủng đỉnh” thật sự là cung cách của giới quan liêu, hay các mụ các mệ, con vua cháu chúa. Lá ngọc cành vàng. Nguyễn Công Trứ đã có lần mô tả quan lại triều đình Huế: Dù tía võng xanh văn đủng đỉnh Gươm vàng thẻ bạc võ nghênh ngang Cảnh quan trường phong kiến ấy từ lâu đã hạ màn. Không biết xứ sông Hương núi Ngự ngày nay còn ai nghênh ngang, còn ai đủng đỉnh nữa hay không. * Dùng từ Mèo Huế là ngoa ngữ. Mèo là súc vật độc lập tự do, lúc chán ở với người thì tự giải phóng làm mèo hoang, chịu tất tả, đói lạnh như Xuân Diệu đã mô tả kỹ và hay. Trong một thời gian lịch sử dài, mèo ít lệ thuộc vào kỷ cương loài người; nhưng khi những tiến bộ khoa học, kỹ thuật cải tiến đời sống vật chất, thì con mèo cũng có thừa hưởng. Con mèo bầu bạn, nhiều sắc lông lộng lẫy ngày nay không còn là con mèo mướp bắt chuột mà Nguyễn Trãi đã mô tả. Nó biến đổi không phải do chính sách gia huấn, mà do con người lai giống, tạo ra giống mèo mới, như giống “mèo Bắc kỳ”, Tonkinois, ngày nay không can dự gì đến con mèo Nguyễn Trãi, mà lai giống từ mèo Xiêm với mèo Miến Điện, khoảng 1950 tại Mỹ. Gọi là Bắc kỳ cho có âm hưởng viễn đông và viễn xứ. Mai kia mốt nọ, trên thị trường mèo thế giới nếu có xuất hiện con “Mèo Huế” e cũng là mạo danh để khuyến mãi. Bài này viết vui chơi ngày Tết, đã được nhiều bạn Huế góp ý và các họa sĩ Huế, trong và ngoài nước minh họa, tác giả chân thành và thân thiết cảm ơn. Có thể gọi là… Mèo giao lưu. Cuối cùng cũng để mua vui, xin ra câu đối, đặc biệt cho người Huế vốn sính chữ nghĩa: Tết Mèo, bấm chuột gửi meo mèo chuột. Xuân Tân Mão, 2011 Đ.T (264/2-11) --------------------- (1) Bùi Minh Đức, Từ điển tiếng Huế, nxb Văn Học, 2004. (2) Nguyễn Xuân Kính chủ biên: Ca dao người Việt, nxb Văn Hóa, 1995. (3) Xuân Diệu, Phấn Thông Vàng, 1939, trích trang 16-19-83, theo nxb Thanh Niên, 1989. Có in lại trong Xuân Diệu, Tuyển Tập II, nxb Văn Học, 1987. |
ĐỖ LAI THÚY
“Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu”
(Chữ không kinh động người chết không nhắm mắt)
Đỗ Phủ
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
So với những trào lưu hiện đại chủ nghĩa có tính chất tiền phong, mối quan tâm hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh chưa phải là vấn đề hình thức nghệ thuật mà là vấn đề đổi mới cách nhìn về con người và thế giới.
DANA GIOIA
Bởi vì tất cả mọi phương tiện truyền thông đều là phân mảnh của chính chúng ta kéo dài đến lãnh vực công cộng, bất cứ tác động nào trên chúng ta của bất cứ phương tiện truyền thông nào cũng có khuynh hướng mang những ý nghĩa khác vào một quan hệ mới.
(Marshall McLuhan, Understanding Media)
KHẾ IÊM
Tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ Tân hình thức hay bao gồm: ý tưởng và nhịp điệu. Ý tưởng trong thơ, nếu ai cũng biết rồi thì không còn là ý tưởng nữa, bởi vì thơ phát hiện điều mới lạ trong những sự việc thường ngày.
NGUYỄN HỒNG DŨNG
(Phần cuối, tiếp theo Sông Hương số 350, tháng 4/2018)
PHẠM PHÚ PHONG
Những trang sách này thể hiện nỗ lực nhìn và làm cho nhìn thấy Con người sẽ như thế nào và đòi hỏi điều gì, nếu ta đặt Con người vào khung cảnh của những hiện tượng bề ngoài, một cách toàn diện và triệt để. (Pierre Teilhard de Chardin).
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Chúng ta đi tìm trong thơ tiếng nói của chính mình. Chúng ta nói trong những ước thúc chặt chẽ của ngôn ngữ và âm nhạc. Chúng ta nói chúng một cách tự do.
PHẠM TUẤN VŨ
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, địa danh không chỉ xuất hiện với số lượng lớn, tần số cao, mật độ đồng đều mà còn đem lại nhiều giá trị thẩm mĩ quan trọng.
NGUYỄN HỒNG DŨNG
Tiểu thuyết theo xu hướng hậu hiện đại đã đặt ra nhiều vấn đề mới đối với các nhà nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam, buộc họ phải có những cách thức nhìn nhận, soi xét từ những hướng nghiên cứu chưa có tiền lệ.
ĐỖ QUYÊN
Chè ngon, nước chát xin mời
Nước non non nước, nghĩa người chớ quên.
(Ca dao)
KHẾ IÊM
Lâu nay, thơ Tân hình thức ít khi nhận được những góp ý rõ ràng, thẳng thắn, để mở ra những thảo luận, làm sáng tỏ thắc mắc của bạn đọc.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
“Mọi câu chuyện vĩ đại, về cơ bản, là một sự phản tư lên chính nó chứ không phải là một sự phản tư về thực tại.”
Raymond Federman
“Đối tượng mỹ học thuộc về cái tinh thần nhưng lại có cơ sở của nó ở trong cái có thực”
Roman Ingarden
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày. Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết và nối kết của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang xảy ra.
ĐẶNG ANH ĐÀO
Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.
NGUYỄN VĂN HÙNG
Từ biểu tượng văn hóa, chó đã trở thành đề tài, cảm hứng trong nhiều loại hình nghệ thuật. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học, với sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc về thế giới loài vật, các nhà văn đã sáng tạo nên những hình tượng đặc sắc, vừa quen thuộc, gần gũi, vừa mới lạ, độc đáo.
JANE CIABATTARI
Lần đầu tiên đọc tác phẩm của Jorge Luis Borges cũng giống như khi chúng ta phát hiện ra một mẫu tự mới trong bảng chữ cái hay một nốt nhạc mới trên âm giai vậy.
LÊ TỪ HIỂN
1. Ngôi sao mai lạc nẻo mưa giăng
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.
MỘC MIÊN
Là người đến với văn chương khá muộn nhưng chỉ với một tác phẩm tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, tác giả Lê Thanh Kỳ cũng đã ghi dấu ấn đáng chú ý đối với nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
PHẠM TUẤN VŨ
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.