PHẠM PHÚ PHONG
Thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, hay nói đúng hơn là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật của một hiện tượng văn học.
Ảnh: vansudia.net
Với Thạch Lam, đây không phải là lần đầu tiên nghiên cứu các yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật trong sáng tác của ông. Theo một thống kê không đầy đủ, ít nhất cũng đã có ba mươi công trình với các qui mô khác nhau đã nghiên cứu về đời văn Thạch Lam, trong đó ít nhiều đã đề cập đến các cấu trúc nghệ thuật, các yếu tố hợp thành ngôn từ, về thời gian, không gian, nhân vật, kể truyện, bình luận, ngoại đề, đối thoại, mở đầu, dẫn dắt, kết thúc... Nhưng để có một cái nhìn đầy đủ về hệ thống nghệ thuật với tư cách là một chỉnh thể hình thức mang tính nội dung, buộc phải tìm đến lý thuyết thi pháp học.
Cũng chính vì lẽ đó và đồng thời để tránh một con đường đi vòng đã chi chít những dấu chân, xin phép tự giới hạn trong phạm vi truyện ngắn và gom lại thành mấy vấn đề như sau:
1. Với một nhận thức thẩm mĩ sáng rõ, Thạch Lam đã xác định "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lõi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng trang 294). Đó là quan niệm nghệ thuật hết sức đúng đắn và mới mẻ, chạm đến vấn đề căn cốt của sáng tạo, có giá trị lâu bền, tạo cho dòng mực trong ngòi bút của Thạch Lam chảy theo một lối rẽ khác với những người cùng nhóm trong Văn đoàn Tự Lực, nhưng đồng thời cũng không giống với quan niệm của những nhà hiện thực phê phán, bởi lẽ, điểm xuất phát đến với văn chương của ông từ một phía khác. Thạch Lam cũng đặt ra tiêu chí đầu tiên cho tác phẩm là sự chân thực, là phải "tự cày bừa lấy trang sách nói về người nhà quê trong văn chương", nhưng ông lấy thế giới hiện thực chung quanh làm nền tảng, ông đòi hỏi "phải biết quan sát bè trong và biết đi sâu vào “bí mật những tâm hồn ấy" (trang 300). Nhưng nếu chỉ có thế thì Thạch Lam đã tự xếp vào hàng những nhà hiện thực phê phán và đứng gần các cây bút phân tích tâm lý sắc sảo như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thạch Lam cho rằng: Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết" (trang 281) và "qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lý của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lý người ngoài". Nghĩa là cái hiện thực mà nhà văn quan tâm, đặt lên hàng đầu, là hiện thực tâm trạng, khai thác tận cùng những cảm xúc, quan niệm của tâm hồn mình để khám phá thế giới. Hay nói đúng hơn, cảm xúc tâm trạng của nhà văn bao giò cũng xuất phát từ thế giới hiện thực, nhưng được biểu hiện qua bút pháp lãng mạn, làm cho Thạch Lam vừa gần gũi với các nhà hiện thực, vừa mang vóc dáng lãng mạn, trữ tình.
Từ quan niệm hiện thực vận động trong con người đã đưa đến một thế giới đông đảo, phong phú, đủ "thập loại chúng sinh" về đứng chật trong thế giới tâm hồn của Thạch Lam. Xin đừng vội tin vào "tuyên ngôn" của các nhà văn. Khi Thạch Lam phác thảo về Chân dung người nhà quê trong văn chương như tựa đề một tiểu luận viết vào năm 1939 của ông, chúng ta chớ vội tin là toàn bộ sáng tác của ông viết về những người lao khổ. Thế giới nghệ thuật của ông là thế giới của những người nghèo khó cam chịu như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), chị Sen (Đứa con); những người ý thức thân phận như Tâm (Cô hàng xén); Lan và Huệ (Tối ba mươi); Liên (Một đời người); Dung (Hai lần chết), những người chân quê phố huyện như vợ chồng ông bà Cả và cô Lan (Tình xưa), người bà và cô Nga (Dưới bóng hoàng lan); Liên và An (Hai đứa trẻ)... nhưng ngòi bút của ông còn có thiện cảm cả với những người giàu có, những người mà số phận đã ban cho một đời sống sung túc như gia đình của chị em Lam, Sơn (Gió lạnh đầu mùa), Thanh (Một cơn giận), tấm lòng xót thương vì một tiếng chim kêu của những người có mức sống trung lưu (Tiếng chim kêu), thậm chí thương cả những người đầm Tây "những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi (...) lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiết hiểu biết những người đàn bà ấy" (Người đầm, trang 98). Có thể nói rằng con người trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, cả những người nghèo khổ đến kẻ giàu sang, cả những người đói vật vã vì cái ăn, cái mặc đến những người may mắn trong đời đều có tâm trạng buồn thương cam chịu về thân phận làm người - những con người có độ dư của những phẩm chất làm người, như chính cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người của tác giả, khác với con người làm trò, con người đáng rơi phẩm chất làm người trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan; khác với con người oan trái nhưng không bị tha hóa bởi hoàn cảnh trong sáng tác của Ngô Tất Tố; khác với con người bị vật hóa, con người bán dần sự sống của chính bản thân mình, lê tấm thân vật vã áo cơm trong sáng tác của Nam Cao; khác với con người vô nghĩa lý trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng; đồng thời cũng khác với tư duy của những nhà lãng mạn, với con người giao hòa nhân ái của Xuân Diệu; con người hành động cải tạo xã hội vì mục tiêu cá nhân với nhiều ảo tưởng xa vời của Nhất Linh, Khái Hưng... Tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá và miêu tả. Đó là một khối thủy tinh trong suốt, mỏng mảnh, dễ vỡ, không quen va chạm với những xung đột, mâu thuẫn khắc nghiệt, ngay cả lúc ông tả Một cơn giận hoặc Hai lần chết mà chẳng thấy có gì đáng giận hoặc chưa thấy cái chết đâu cả, nhưng mỗi khi khép lại những trang cuối truyện, tâm hồn ta cứ phảng phất một nỗi buồn thương nhẹ nhàng nhưng day dứt, sâu nặng khó nguôi về thân phận con người.
2. Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng là tiền đề của một thi pháp nghệ thuật tương ứng. Thạch Lam thường kể chuyện theo tuần tự phát triển của thời gian, khó tìm thấy những yếu tố kỹ thuật mang tính chất "làm văn". Đọc lại những hồi ký Những kỷ niệm chia bùi xẻ ngọt cùng Thạch Lam của Đinh Hùng, Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu Thạch Lam thẩm âm của Hoàng Điệp Thứ Lan (1965); Người em thứ sáu của Nguyễn Thị Thế; Tìm kiếm Thạch Lam của Thế Uyên; Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng của Nguyễn Tường Giang... chúng ta thấy hầu hết những truyện của Thạch Lam đều là những chuyện có thật, chuyện trong gia đình, trong bạn bè được ông kể lại bằng một lối kể bình thường, chân chất và hầu hết đều dưới điểm nhìn của nhân vật tôi - vừa là nhân vật, vừa là người trần thật, vừa là tác giả. Do đó, những ý kiến cho rằng văn chương của Tự Lực văn đoàn nói chung, của Thạch Lam nói riêng đều là tình thương theo kiểu ban ơn của những người giàu có, dư dật cúi xuống những mảnh đời nghèo khổ ngày nay đã tỏ ra thiếu cơ sở, vì gia đình của anh em nhà Nguyễn Tường đã từng nghèo khó sa sút. Thạch Lam và người chị thứ năm đã từng dọn quán hàng xén đợi chuyến tàu đêm ở phố huyện Cẩm Giàng. Với cái nhìn hiện thực sinh động, Thạch Lam đã tìm ra trong những chuyện thường ngày tưởng như không có chuyện ấy những điều cần kể, và khi đã kể thì lập tức thành chuyện. Chuyện một đêm mưa gió hai anh em nằm nghe tiếng chim kêu, thương con chim muốn mở cửa đưa vào nhưng ai cũng ngại rét, sáng ngủ dậy hóa ra không phải chim mà tiếng hai cây tre chạm nhau (Tiếng chim kêu). Chuyện một lần đi xem phim, thấy một người đầm mua vé hạng nhì, đoán chắc người đầm cũng thuộc loại nghèo khó, tưởng ra "cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái dãy nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh bên cái suối" (Người đầm); Chuyện đi tàu gặp một người đồng hành đang đọc chính cuốn sách của mình viết (Cuốn sách bỏ quên); Chuyện đi đường gặp một người hành khách từng đi lính cho Tây (Người lính cũ); Chuyện có lần định lấy cắp tiền của bạn (Sợi tóc); Có truyện suốt từ đầu đến cuối là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật (Người bạn trẻ)... Nghệ thuật dẫn chuyện của Thạch Lam là sử dụng mạch phát triển ngầm của tâm lý, dòng chảy của tiềm thức, với những khoảnh khắc cô đơn trong thế giới mà đôi khi con người không có ngôn ngữ diễn tả hết tâm trạng, phải dùng đến "ngôn ngữ" của cử chỉ, nét mặt, ánh nhìn, bước đi, dáng đứng... Không thể tìm thấy một cơ sở chắc chắn nào để phủ nhận cái nguyên lý coi văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng không thể không công nhận văn học đôi khi là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ chiếm lĩnh tinh thần của con người. Bởi lẽ, bản chất văn học không chỉ phản ánh hiện thực mà còn đề ra những ý thức mới, những tư tưởng nghệ thuật, mà trạng thái tinh thần, trạng thái tâm lý không phải bao giờ cũng được ý thức một cách đầy đủ. Muốn tiếp cận thế giới hình tượng của Macxel Prút, Kapka, Hemingway, của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam, hoặc sau này, của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... người đọc hóa thân vào tâm trạng nhân vật, cũng chui xuống những tầng ngầm của thế giới chưa được ý thức ấy. Từ tầng ngầm của dòng chảy ý thức mới nhận thức được sự chi phối của hệ thống các quan niệm, sự hằn nổi hình tượng tác giả trong các hình tượng văn học, mối liên hệ mật thiết giữa hình tượng không gian và thời gian, các yếu tố của thi pháp cấu trúc...
Điều quan trọng đối với Thạch Lam, là sự nhất quán trong giọng điệu và cảm xúc. Niềm yêu thương, trân trọng đối với con người của ông đã tạo cho giọng văn ông một hơi thở ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái cay nghiệt của cuộc đời Thạch Lam cũng luôn giữ con người đứng bên này bờ vực của sự yêu thương cam chịu (Đói, Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi); hoặc khi đẩy nhân vật vào vực thẳm của nỗi đắng cay chua xót, ông cũng biết dừng lại, lửng lơ, mở ra những tuyến những đường cho người đọc hình dung, chứ không chỉ ra hết mọi điều, mọi lẽ (Nhà mẹ Lê, Một cơn giận, Người bạn cũ, Hai lần chết). Còn gì buồn hơn cho thân phận con người, khi vì cái đói của đàn con mà người mẹ phải liều đi vay, bị nhà giàu xua chó cắn, về nhà lên cơn mê sảng rồi chết. Nhưng còn đàn con kia chắc chắn cũng sẽ chết, không vì chó cắn mà vì cái đói đang còn đeo đuổi mãi. Người ta gom góp nhau mua cỗ áo quan chôn người mẹ xấu số! "khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ của bác Lê ngồi ở vỉa hè, con Tí đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi một lát sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa. Và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ mới dứt" (Nhà mẹ Lê, trang 37).
Thạch Lam biết đặt những câu, những từ đúng vị trí của nó và buộc nó hắt sáng lên vấn đề, gợi lên một cách rõ ràng những hình tượng, những trạng thái cảm xúc của tâm hồn: "Có những ngày mà tự nhiên, không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng và không muốn làm việc gì". Đó là khởi đầu cho cái giận vô cớ đưa đến sự ân hận, sám hối trước nỗi đau của con người" (Một cơn giận); tình yêu đầu đời của chàng trai tỉnh và cô gái quê nơi chàng trọ học "có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây khiến chàng vươn phải" (Tình xưa), hoặc: "Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sủng, mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát" (Dưới bóng hoàng lan). Có những trang văn đẹp, gợi nhớ đến không khí Tôi đi học của Thanh Tịnh: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều" (Hai đứa trẻ).
3. Hình tượng không gian - thời gian gắn quyện với nhau để nhằm gợi sâu tâm trạng, không gian và thời gian không thể chia cắt ra được. Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi, nhà mẹ Lê gợi cho ta hình dung ra bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé nhỏ đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất tất của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quảng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố huyện le lói ánh đèn dầu, khoảng tối đêm ba mươi trong căn buồng nhà xăm, nơi cô gái điếm đang đón giao thừa hoặc khoảng tối "trong dãy nhà lụp xụp, thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những con người gầy gò rách rưới" (trang 46). Ngay cả khi không gian nghệ thuật được Thạch Lam hé mở chan hòa ánh nắng trong Dưới bóng hoàng lan, cũng chưa có một điều gì chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho con người, ngoài những lời hứa hẹn. Có khi, không gian nghệ thuật là một không gian lép. Người viết lướt qua không gian sinh hoạt, không gian hiện thực để vươn đến không gian suy tưởng, cô đúc, vo tròn lại, nén lại trong phạm vi một chiếc dạ dày, như không gian của Sinh (Đói), trong một khoang xe như không gian của Thành (Cuốn sách bỏ quên), trong rạp hát như không gian của Người đầm... Từ một điểm của tâm tưởng, hay là dựa trên một điểm của tâm tưởng, người viết có thể liên tưởng về không gian quá khứ, về không gian song hành hiện tại, hoặc hướng về mơ ước tương lai không lấy gì làm chắc chắn để nói lên sự tồn tại chông chênh của thân phận con người.
Cái trục không gian - thời gian nghệ thuật của Thạch Lam là nơi tồn tại một thế giới khốn cùng, quanh quẩn, ngột ngạt, từng mảnh đời vụn vỡ, có ý nghĩa khái quát, trong đó hằn sâu lên sự vấn tâm - cũng là lời đối thoại với cuộc đời của tác phẩm - rằng, liệu con người có đủ sức vùng vẫy thoát khỏi tình trạng khốn cùng của cái không gian chật hẹp ấy không?
Trong sáng tác của Thạch Lam không gian cá nhân bị dồn nén đến mức ngột ngạt, làm xuất hiện sự cô đơn của nhân vật, và khi nhân vật tự đối diện với mình làm bộc lộ sự suy tưởng. Dưới bóng tre làng đen dày, trong những căn nhà "ổ chuột" tối tăm, nhân vật của Thạch Lam miên man trong những suy nghĩ, độc thoại nội tâm, sự day đứt âm thầm và chua xót về đời mình: "Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt tối tăm và dày đặc; Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối” (Cô hàng xén, trang 146). Đối với mẹ Lê, cho đến cuối đời, trước khi chết trong cái đói vật vã của cả nhà và sự cấu xé của con chó nhà giàu, mẹ tổng kết lại đời mình: "Bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi" (Nhà mẹ Lê, trang 36). Nhân vật Sinh vật vã trên chiếc phản gỗ, trong căn nhà tối tăm, chống lại một cách bất lực với cái đói, đến nỗi "chàng chỉ muốn chết ngay lúc bây giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai" (Đói, trang 64).
Nhớ lại, hồi tưởng lại được Thạch Lam sử dụng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Thời gian quá khứ được hồi tưởng lại, bao giờ cũng được huyền thoại hóa với những ngọt ngào ấm áp. Nhưng với Thạch Lam, thời gian như là người bạn đường của đau khổ, nhớ lại, tưởng lại chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ trong hiện tại (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Một đời người, Người lính cũ, Người bạn cũ...). Thạch Lam sử dụng thời gian quá khứ đủ để diễn tả tâm trạng, còn thời gian tương lai chỉ là một giả định, một khoảng mờ tối, không được hình dung rõ ràng. Những mơ ước đời thường của con người hầu như ít diễn ra, bởi vì con người lúc nào cũng loay hoay với cái ăn, cái mặc, chống chọi với đói rét trước mắt. Thời gian hiện tại là những sinh hoạt thường nhật, là thời gian hiện thực được miêu tả song hành với thời gian tâm trạng. Đối với Liên (Một cuộc đời), quãng thời gian lấy chồng, sống dưới sự khắc nghiệt của người chồng vũ phu và mẹ chồng ác nghiệt là thời gian nặng nề, đau khổ cả đời người, mới "bảy tám năm qua mà Liên tưởng hình như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người" (trang 72). Sự xuất hiện thường xuyên yếu tố lãng quên về khái niệm thời gian thường nhật, bởi sự tồn tại và chi phối của thời gian tâm tưởng "không nhớ là mấy tháng sau, anh Bào đến chơi nhà tôi" (Người bạn trẻ, trang 55), "Nàng không nhớ rõ gì cả. Ra đến sông lúc nào cũng không biết” (Hai lần chết, trang 89).
Thạch Lam là một tác giả sử dụng không gian và thời gian đến mức nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tạo. Thời gian và không gian chuyển động, thay đổi, tính cách nhân vật cũng thay đổi theo. Cùng với thay đổi thời gian, không gian nghệ thuật cũng mở ra nhiều chiều, nhờ có hồi tưởng, ước mơ...
Trên đây chỉ là mấy vấn đề cơ bản trong thi pháp Thạch Lam. Cần phải có sự đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ hơn những vấn đề mà Thạch Lam đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Ví dụ, vấn đề về tính chân thực, về nghệ thuật kịp thời và vĩnh cửu, về tính cách nhân vật, về vai trò của thế giới quan và tài năng trong quá trình sáng tạo, quan niệm về thể loại tiểu thuyết... đã được ông trình bày trong tiểu luận Theo dòng cho đến nay đã hơn năm mươi năm mà vẫn còn mới mẻ, có giá trị khám phá.
Với khoảng thời gian hơn năm năm đi với văn chương, Thạch Lam đã để lại ba tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, một tập bút ký, một tập tiểu luận, đã kịp thời tạo ra một dòng mới trong văn học sau này, với cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người. Điều đó làm cho Thạch Lam càng gần gũi với đời sống, với độc giả ngày nay.
Huế, tháng 6 năm 1992
P.P.P.
(TCSH51/09&10-1992)
LÊ QUANG THÁI
Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Cầm tay chưa muộn nối lời
Nghiêng mình gửi mộng mây trời lang thang
(Bùi Giáng)
VĂN GIÁ
Tôi bắt đầu nhan đề bài viết bằng một câu hỏi có vẻ như khá liều lĩnh? Nó sẽ lập tức dẫn đến một phản biện ngay sau đó: “Hay” là một cách nói định tính, không tường minh được, anh cho là hay, tôi cho là không hay, thậm chí là dở thì thế nào?
BỬU Ý
(Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)
PHAN NGỌC THU
Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.
“Chúng sanh chìm bùn dục
Những kẻ không thấy đời…”
Subha.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
“Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.
HOÀNG LONG
Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…
LẠI NGUYÊN ÂN
Khi bàn tới những vấn đề không đơn giản như quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, thiết tưởng chẳng những cần xét xem về mặt logic lý luận thì nên quan niệm thế nào cho thỏa đáng, mà còn cần xét về mặt lịch sử, quan hệ này đã được biểu hiện ra sao, thực chất của nó là gì, v.v…
ANH CHI
Sau khi đọc tiểu luận Ý nghĩa một đời người của tôi trên tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã viết bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong “Văn chương và hành động” (NV&TP số tháng 3 và 4/2014), ghi là “trao đổi với Anh Chi”. Nhưng, nội dung bài viết đó cho thấy anh chỉ hành xử với nhà văn Lê Tràng Kiều, và cách hành xử vẫn như cũ. Do vậy, tôi thấy cần phải viết bài tiểu luận này để trao đổi lại.
LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.
NGUYỄN HỮU LỄ
...Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), quê ở xã Văn Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình hoàng tộc. Bằng con đường tự học, Tôn Thất Dương Kỵ đã trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử, một nhà giáo, đồng thời là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng…
TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN
(Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thể” của Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))
DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu)
LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.
LÊ DỤC TÚ
“Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...
MAI VĂN HOAN
Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.
NGÔ MINH
Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
Có tài mà cậy chi tài (Nguyễn Du)
LÝ HOÀI THU
Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.