Mấy suy nghĩ về chuyên mục lý luận và phê bình trên Tạp chí Sông Hương

15:18 05/02/2009
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

1. Tạp chí Sông Hương kể từ ngày được thành lập đến năm 2003 đã tròn 20 năm. Với tuổi đời ấy, tuy chưa nhiều, nhưng Sông Hương đã sớm khẳng định vị thế của mình trong đời sống văn học của địa phương và của cả nước.
Với 200 số tạp chí ra mắt bạn đọc, Sông Hương đã đăng tải hàng nghìn tác phẩm có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực sáng tác, lý luận, phê bình và đối thoại không chỉ trong phạm vi văn nghệ mà còn lan toả cả trên bình diện văn hoá của các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu có mặt trên khắp mọi miền của đất nước. Điều đó cho thấy, Sông Hương trở thành nơi hội tụ đầy sức hấp dẫn, nơi phát sáng sâu rộng có ảnh hưởng tích cực đối với độc giả cả nước.

Kỷ niệm 20 năm tạp chí Sông Hương, Ban tuyển chọn đã cho ra mắt bạn đọc 4 tuyển tập với hơn 2000 trang, trong đó, chuyên mục Phê bình và đối thoại chiếm 512 trang đăng tải trên 70 bài viết của các nhà nghiên cứu. Như lời nói đầu Cùng bạn đọc, “Do khuôn khổ và những khó khăn không thể khắc phục được, nên mỗi tác giả cũng chỉ góp mặt một bài trong tập. Đó là điều đáng tiếc, vì thế, có nhiều bài hay, giá trị cũng sẽ vắng trong công trình này (...). Ví như, có người có bài nhưng không có mặt trong tuyển tập do tính chất bài viết, do chủ đề, đề tài hoặc vấn đề đặt ra (...) chưa tiện đưa vào; có người viết đều đặn trên Sông Hương, nhưng chỉ chọn một bài cũng chưa thật công bằng; có những bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến vùng đất và hiện thực văn hoá Huế, người chọn có “ưu ái” hơn cũng là điều dễ hiểu”. Dẫu Phê bình và đối thoại chưa tái hiện được bức tranh toàn cảnh không khí và thành tựu nghiên cứu học thuật trải qua 20 năm thể hiện trên tạp chí Sông Hương, nhưng thiết nghĩ đó cũng là một nỗ lực lớn đáng khẳng định.

2. Nhìn một cách tổng quát, Phê bình và đối thoại đã cho người đọc thấy được sự phong phú, đa dạng, tính phức tạp và đa chiều của nhiều bài viết về lý luận, phê bình và nghiên cứu trên tạp chí Sông Hương trong dòng chảy thời gian 20 năm của đời sống văn học. Ở đây, ta bắt gặp một bức tranh thu nhỏ nhưng không mang tính lược quy của một tuyển tập về đời sống văn học, và ngay cả trên lĩnh vực lý luận, phê bình, nghiên cứu cũng phản ánh khá toàn diện giá trị của những công trình, những bài viết theo từng phạm vi và cấp độ khác nhau.

Trước hết, cần nhận thấy giữa lý luận, phê bình và nghiên cứu quả là có những biên giới nhất định. Tuy cái khách thể tinh thần là văn học được nhìn nhận từ nhiều góc độ và tự chúng lại trở thành đối tượng khác nhau của từng phân môn thuộc khoa nghiên cứu văn học nói trên, nhưng giữa chúng tuyệt nhiên không hoàn toàn có sự phân tách mà ngược lại có mối quan hệ, chuyển hoá lẫn nhau. Qua Phê bình và đối thoại, Sông Hương đã chứng tỏ khả năng tập hợp và bao quát nhiều phương diện lý luận cơ bản Được đúc rút qua nghiên cứu tác giả và tác phẩm. Chẳng hạn vấn đề tư tưởng, thế giới quan, vấn đề thể loại, vấn đề hình tượng và ngôn từ nghệ thuật, vấn đề đề tài và nhân vật văn học..v.v. Bên cạnh những bài viết về các hiện tượng văn học đơn lẻ, tạp chí Sông Hương còn đăng tải những bài viết về những vấn đề lý luận mang tính hệ thống có giá trị. Chẳng hạn, Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học của Trần Đình Sử, Lý luận phê bình và đổi mới của Ngọc Trai, Những đặc điểm của hệ thống lý luận văn học của Trương Đăng Dung..v.v.

3. Nét nổi bật của tạp chí Sông Hương còn được thể hiện ở sự quan tâm đến những vấn đề lý luận gắn kết không tách rời với thực tiễn sáng tác trong và ngoài nước. Đó là việc đăng tải những công trình, bài viết đi từ những cơ sở lý luận để soi sáng những hiện tượng sáng tác và tiếp nhận trong phạm vi một nhà văn, một giai đoạn hay thời kỳ văn học. Chẳng hạn, Khảo sát một loại bài ca dao viết theo thể tự do của Trần Hoàng, Tính Kịch trong thơ ngụ ngôn Laphôngten của Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nhân vật tri thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng của Đỗ Hải Ninh, Cảm nghĩ về thơ hôm nay của Nguyễn Khắc Thạch ..v.v. Ngược lại, từ sáng tác của nhà văn hay trải qua đời sống của văn học mà làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận, góp phần nhận diện sự kế thừa và cách tân, tính ổn định và vận động trong quan niệm lý thuyết và thể loại, đề tài, hình tượng thơ, phong cách ..v.v.

Chẳng hạn, Sự đổi mới nghệ thuật của một số tác giả truyện ngắn Bình Trị Thiên của Nguyễn Thành, Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng của Hồng Diệu, Lịch sử tiếp nhận văn học Nga ở Việt Nam của Nguyễn Hồng Dũng, Xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thơ của Mã Giang Lân, Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản của Hà Văn Lưỡng, Thanh Tịnh và những trang nặng tình quê mẹ của Lưu Khánh Thơ, Đặng Huy Trứ nhà văn hiện thực giữa thế kỷ XIX của Trần Đại Vinh..v.v. Từ sự phát triển của thực tiễn sáng tác, qua nhiều bài viết đăng trên tạp chí Sông Hương đã đánh động trong tư duy lý luận cần có cách nhìn và quan niệm mới trên nhiều phương diện cơ bản vốn được định hình qua hàng chục năm nay. Hơn bao giờ hết, tính cách mạng của thực tiễn sáng tác đòi hỏi lý luận cần có sự tổng kết, đúc rút, điều chỉnh và bổ sung để đổi mới nếu không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Chính vì vậy mà bài viết Lý luận văn học trước thử thách của thực tiễn sáng tạo của Nguyễn Xớn đã đặt ra yêu cầu này đối với lý luận một cách cấp thiết được Sông Hương đăng tải như một thông điệp mang tính thời sự đến với bạn đọc.

4. Vấn đề lý luận trong lịch sử là một mảng đề tài quan trọng mà lâu nay được giới nghiên cứu trong nước quan tâm, đặc biệt là những quan điểm tiền đề có ý nghĩa đặt nền tảng để hình thành một nền lý luận văn học macxit ở nước ta. Ngoài những quan điểm mỹ học và lý luận văn học của C.Mác, Ph.Ăngghen, những quan điểm văn hoá văn nghệ của Đảng, tạp chí Sông Hương đã đăng tải những bài nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu vốn có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành diện mạo nền văn học cách mạng trong hơn nửa thế kỷ qua. Đó là những bài như Hải Triều - trang sách và thời gian của Hồ Thế Hà, Hải Triều và việc ra đời Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan của Lê Thị Đức Hạnh .v.v.. Thực chất đây là những công trình nghiên cứu về các tác gia lý luận, phê bình có hệ thống được đúc rút lại trong phạm vi một bài báo súc tích, đầy ắp những vấn đề lý luận cơ bản có giá trị. Qua Sông Hương, với những bài viết như vậy, người đọc đã nhận diện từ trong quá khứ các cuộc phê bình luận chiến giữa những quan điểm lý luận phê bình mácxit với phi mácxit, giữa hai phái duy vật và duy tâm, giữa phái “nghệ thuật vị nhân sinh” với “nghệ thuật vị nghệ thuật”.

Ngoài cuộc tranh luận về triết học, trong phạm vi học thuật đại diện cho hai phái, một bên là Hải Triều, Hải Khánh, Hải Vân, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng..v.v. và phái kia đối lập là Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều..v.v. đã cho thấy, quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc theo khuynh hướng hiện thực dần dần được khẳng định không chỉ trên phương diện lý luận mà còn về thực tiễn sáng tác mà Kép Tư Bền là một ví dụ tiêu biểu có ý nghĩa mở đường. Hải Triều đã trở thành người chiến sĩ tiên phong của Đảng trên mặt trận văn hoá, văn nghệ, Những quan điểm của ông đúng như đồng chí Trường Chinh đã nhận xét: “Với trình độ ngày nay nếu ta xem lại (...) ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (Trường Chinh về văn hoá và văn nghệ - T2, Nxb văn học,1986, trang 156). Đặc biệt bài viết về những quan điểm văn hoá văn nghệ của chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn Hạnh đã giúp người đọc thấy được tính cách mạng và khoa học trong quan điểm của Bác. Thực chất đó là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm mỹ học và văn học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.Lênin vào thực tiễn cách mạng của nước ta trong quá trình lãnh đạo xây dựng một nền văn nghệ mới. Những quan điểm đó, giờ đây vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa soi sáng đối với việc phát triển một nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Đất nước bước sang thời kỳ đổi mới thì văn học nghệ thuật cũng đổi mới một cách toàn diện và triệt để. Sự đổi mới trước hết bắt đầu từ sáng tác, tiếp theo là đổi mới về lý luận và phê bình văn học. Từ cuối những năm 80 trở lại đây Sông Hương đã đăng tải hàng trăm bài viết phản ánh được không khí chuyển mình mạnh mẽ, sôi động của đời sống văn học. Nói riêng về chuyên mục lý luận và phê bình, Sông Hương đã chứng tỏ khả năng bao quát và tập hợp đội ngũ nghiên cứu trong nước quan tâm giải quyết những vấn đề cơ bản của lý thuyết văn chương sát thực với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Bằng những nỗ lực đổi mới về tư duy, lý luận và phê bình trên Sông Hương không khuôn lại với cách nhìn và quan niệm cũ về văn học. Những nguyên lý được đề xuất từ lâu tưởng ổn định hay thay đổi không đáng kể thì gần đây đã bị lay động tận gốc, thậm chí đã trở thành tiêu điểm tranh luận của những quan điểm đối lập nhau.

Sông Hương đã đề cập đến nhiều mặt, nhưng tập trung ở những vấn đề trọng tâm như bản chất và chức năng của văn học, mối quan hệ giữa văn học và chính trị, văn học với hiện thực, tính giai cấp và tính nhân loại của văn học, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,..v.v.. Đây là những vấn đề lý luận quen thuộc trong lịch sử đã được xem xét, nhận diện lại một cách sát đúng hơn, trước sự đổi mới của đời sống văn học. Ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác như lý thuyết tiến bộ về văn học, tiếp nhận văn học, kiểu sáng tác và thi pháp cũng được đưa ra trao đổi. Nguyên lý tính đảng, tính chân thật và tính nhân dân qua nhiều bài viết, Sông Hương đã giúp người đọc nhận rõ được sự vận động và đổi mới. Chúng thoát dần những thiên kiến chính trị, những quan niệm giai cấp, dân tộc hẹp hòi để đưa ra những tiêu chí mới, giá trị mới. Ngay cả Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mỹ mà hơn nửa thế kỷ được coi là “khuôn vàng thước ngọc” của trào lưu văn học vô sản, xem ra về sau không hoàn toàn phù hợp nữa. Yêu cầu “phản ánh cuộc sống một cách chân thực lịch sử - cụ thể trong quá trình phát triển cách mạng của nó” không còn là tiêu chuẩn, là thước đo chủ yếu về thành tựu của sáng tác hiện nay.
Tất nhiên, diễn biến và đổi mới là quy luật chung của tiến trình khoa học. Do vậy, không ai có ý nghĩ ngây thơ rằng, sẽ có một thứ lý luận đảm bảo tính ổn định và chân lý tuyệt đối. Đóng góp của tạp chí Sông Hương chính là đăng tải được nhiều ý kiến khác nhau để người đọc rộng đường suy nghĩ và tiếp nhận. Có thể nói Sông Hương đã trở thành một diễn đàn sinh hoạt học thuật dân chủ, là nơi đối thoại nghiêm túc, đầy trách nhiệm đối với độc giả trên bước đường tìm kiếm chân lý khoa học.

6. Là một tạp chí của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, trải qua 20 năm thành lập và phát triển, Sông Hương đã khẳng định vị thế của mình không chỉ trên địa bàn tỉnh mà còn trên phạm vi cả nước và quốc tế. Đến với Sông Hương, bạn đọc đến với sự mới mẻ của văn chương trong cảm nhận, phản ánh hiện thực, đồng thời đến với những tư duy mới mẻ của lý thuyết phê bình trong sự chuyển mình của đời sống văn học.
T.T.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).