Mấy suy nghĩ từ cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng

15:46 28/12/2009
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

Cố nhà văn Vũ Trọng Phụng lúc sinh thời - Ảnh: hoinhavanvietnam.vn

Nhưng một cây bút khi đã tạo ra được những kiệt tác, thì cuộc đời ông ta, tác phẩm của ông ta, tự chúng sẽ đặt ra biết bao vấn đề khiến ta phải suy nghĩ để khai thác những bài học kinh nghiệm, để rút ra những chân lý này khác về sáng tạo nghệ thuật. Vũ Trọng Phụng là trường hợp như vậy. Ngày nay người ta không còn phải dè dặt khi gọi ông là một thiên tài: hai mươi bảy tuổi đời mà để lại một sự nghiệp đồ sộ, trong đó có những tác phẩm có thể gọi là không tiền khoáng hậu.

Từ cuộc đời và sự nghiệp ấy, có thể ngẫm ra nhiều điều bổ ích và thú vị.

1. Văn chương đã có giá thì không thể chôn vùi được

Chân lý này chẳng có gì mới lạ. Từ nghìn năm trước người ta đã nói rồi: Lập ngôn cùng với lập đức, lập công là ba sự nghiệp bất hủ của người đời. “Khuất Bình tứ phú huyền nhật nguyệt, Sở Vương đài tạ không sơn khâu” - Lý Bạch đã viết như thế. Điều đáng nói ở đây là, cuộc đời và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã cung cấp cho ta một bằng chứng thật quý hiếm, đầy sức thuyết phục về chân lý ấy.

Nhớ lại không khí căng thẳng của đời sống văn học những năm 60, 70 của thế kỷ trước, sau vụ Nhân văn - Giai phẩm, mà chưa hết ghê sợ. Người ta đổ lên đầu Vũ Trọng Phụng đủ mọi tội lỗi ghê gớm nhất: trốt-kít, chống cộng, đạo văn, đầu cơ chính trị, mật thám cho Tây, lưu manh, truỵ lạc, chỉ có độc cái tài xỏ xiên, văn chương thì dâm uế, tự nhiên chủ nghĩa, thuộc dòng văn học phục vụ giai cấp tư sản mục nát(1) v.v… Người ta đã vùi Vũ Trọng Phụng xuống tận bùn đen, lại còn đổ lên trên hàng tấn rác rưởi bẩn thỉu nhất. Ấy vậy mà chỉ mươi năm sau, tác phẩm Vũ Trọng Phụng, như những mầm cây đầy nhựa sống, lại tiếp tục vươn lên, chọc thủng lớp lớp bùn đất, nẩy nở tốt tươi, đơm hoa, kết trái dưới ánh sáng mặt trời.

2. Nhà văn và thực tế

Hỏi chuyện mấy nhà văn quen biết Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Tuân, Vũ Đình Liên, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Như Phong, Nguyên Hồng…), tôi mới rõ, Vũ Trọng Phụng không biết đánh bạc, sống rất đứng đắn, mực thước. Đối với mẹ, là một người con chí hiếu, đối với vợ, là một người chồng mẫu mực, đối với bạn bè, đồng nghiệp, tuy nghèo túng thật, nhưng ứng xử rất đàng hoàng, đầy tự trọng… Thế mà đọc tác phẩm của ông, thấy ông viết về các mánh khoé cờ bạc như một tay sành sỏi (Cạm bẫy người). Và thế giới nhân vật của ông thì đầy rẫy những thằng cha đểu giả, xỏ xiên, bịp bợm, dâm ô, độc ác… Vậy là sao? Giải thích thế nào đây về quan hệ nhà văn với thực tế mà ông phản ánh? Đọc Kỹ nghệ lấy Tây, thấy có nhân vật xưng “tôi” - người kể truyện - đích thân lên tận Thị Cầu (Bắc Ninh), vào hẳn cái làng me Tây bên trại lính lê dương để điều tra sự thật. Cơm thầy cơm cô cũng vậy. Vẫn cái nhân vật xưng “tôi” ấy đóng vai một anh cơm thầy cơm cô, thâm nhập vào thế giới những con sen, thằng nhỏ, chị vú, anh bồi để tìm hiểu thực tế. Nhưng sự thật có phải thế đâu! Vũ Trọng Phụng bịa đặt, hư cấu ra thế thôi. Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang cũng có một nhân vật xưng “tôi” như thế đóng vai phu xe. Cũng là bịa đặt ra cả. Làm gì có chuyện đi thực tế như thế của các nhà văn thời bấy giờ. Nhà thơ Vũ Đình Liên biết rất rõ điều đó. Ông ở cùng phố Hàng Bạc với Vũ Trọng Phụng, quen biết cả nhà Vũ Trọng Phụng, cùng học trường tiểu học Hàng Vôi với Vũ Trọng Phụng. Không có chuyện ấy đâu! Bịa ra hết! - Vũ Đình Liên nói thế mà! Vậy thì giải thích như thế nào về những bức tranh hiện thực rất chân thật, rất sinh động trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng?(2).

Tôi cho rằng, trong sáng tao nghệ thuật, điều quyết định là tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) của nhà văn. Đó là một hình thái tư tưởng tổng hợp, bao gồm cả lý trí, tình cảm, cảm xúc, cả tiềm thức, vô thức, được huy động triệt để trong giờ phút cảm hứng vào việc nhận thức và diễn tả thế giới. Nó tạo ra ở tâm hồn nhà văn một chất dính riêng, một thứ nam châm riêng, có khả năng bắt lấy, hút lấy rất nhậy và làm sống dậy, trong trí tưởng tượng của người viết, tất cả những gì đáp ứng yêu cầu của nó, kể cả những tư liệu gián tiếp thu lượm từ sách vở báo chí hay nghe ai đó thuật kể lại. Vũ Trọng Phụng là người rất ham đọc, ham học. Ông là một nhà báo, nên phải đọc đủ thứ sách vở, báo chí, tiếng Tây, tiếng ta để nhặt tin tức. Ông lại có một người bà con tên là Trưởng Tạo cùng ở một căn hộ, người tầng trên, người tầng dưới. Trưởng Tạo là tay ăn chơi lõi đời, rất thạo các ngón cờ bạc. Ông ta là một kho tư liệu sống, thường xuyên cung cấp “thực tế” cho Vũ Trọng Phụng.

Tất nhiên tư tưởng nghệ thuật cũng có nguồn gốc từ đời sống thực tế. Nó được hình thành ở nhà văn từ tuổi ấu thơ, do tác động của môi trường sống của ông ta, bao gồm môi trường gia đình, môi trường xã hội, môi trường thiên nhiên, môi trường văn hoá. Vũ Trọng Phụng xuất thân trong một gia đình dân nghèo thành thị, mồ côi cha từ nhỏ, nhà có bệnh lao gia truyền (ông nội, ông thân sinh và bản thân Vũ Trọng Phụng đều mất sớm vì bệnh lao. Khi Vũ Trọng Phụng qua đời, cảnh nhà rất bi thảm: ba người đàn bà goá trong một gia đình). Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học đã phải đi làm để kiếm sống. Chạy được chân thư ký quèn cho một nhà in, rồi một hãng buôn, thì cả hai lần đều bị sa thải vì nạn kinh tế khủng hoảng. Một thiếu niên vừa bước chân vào đời thì mọi con đường lập thân, lập chí đều tắc nghẽn hết. Hoàn cảnh ấy đã tạo ra ở Vũ một tâm trạng phẫn uất mãnh liệt đối với cái xã hội mà ông gọi là “chó đểu” - một xã hội mà kẻ có quyền, có tiền làm chủ tất cả, chi phối tất cả. Tư tưởng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được tạo nên từ đó. Ông lại sống chủ yếu ở phố Hàng Bạc, trong một căn gác xép. Vùng phố này là một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi của Hà Nội. Kề chung quanh là Hàng Đường, Hàng Đao, Hàng Buồm, Đồng Xuân, Mã Mây, Sầm Công, Tạ Hiền, nhan nhản những tiệm ăn, tiệm hút, rạp tuồng, rạp hát… Cạnh nhà Vũ Trọng Phụng lại sừng sững dinh cơ của bà Bé Tý, một mụ me Tây cao cấp nổi tiếng một thời (người ta gọi là “Bà chúa Hàng Bạc”). Vậy là hàng ngày giễu qua giễu lại trước mắt Vũ Trọng Phụng là một thế giới nhân vật, như muốn trêu ghẹo, chọc tức ông: giàu là con buôn, me Tây, bọn công tử bột ăn chơi, nghèo là bồi săm, bồi tiêm, ma cô, lưu manh, gái điếm… Tất nhiên ở đâu chẳng có những người dân lương thiện. Nhưng với tâm trạng phẫn uất, thái độ bi quan, cái nhìn của Vũ dễ bị hút nhiều hơn về phía đen tối của “nhân loại”, dễ bắt lấy nhiều hơn những mặt trái của cuộc đời.

Vâng, tạo ra thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng, vẽ ra những bức tranh hiện thực của Vũ Trọng Phụng, là cái tư tưởng nghệ thuật ấy. Một số kiếp đầy bất hạnh, một cuộc đời “Tài cao, phận thấp, Chí khí uất” (Tản Đà), một tâm trạng căm thù không bao giờ nguôi đối với cái xã hội “chó đểu” ngày trước, đó là nguồn gốc tài năng của Vũ Trọng Phụng, là linh hồn của chủ nghĩa hiện thực có sức công phá ghê gớm của Vũ Trọng Phụng.

3. Nhà văn và sức mạnh tưởng tượng tổng hợp

Viết văn, nhất là viết tiểu thuyết, phải có khả năng khái quát tổng hợp. Không phải khái quát bằng những khái niệm trừu tượng thuộc lý trí mà bằng sức mạnh tưởng tượng: tạo ra một thế giới nghệ thuật có khả năng phản ánh một cách tổng hợp những mảng hiện thực rộng lớn của xã hội trong một thời kỳ lịch sử.

Nam Cao và Vũ Trọng Phụng đều có khả năng ấy, nhưng họ thực hiện ngược chiều nhau. Tôi nhất trí với Chu Văn Sơn: Nam Cao thường đi từ những cái nhỏ nhặt đời thường, từ một điểm vi mô mà nâng lên, khái quát lên bằng suy tưởng triết lý, đến những vấn đề ở bình diện vĩ mô, có khi liên quan đến vận mệnh của cả đất nước, của cả nhân loại. Vũ Trọng Phụng thì ngược lại: thâu tóm, dồn nén cả một xã hội, cả một thời đại vào trong vài trăm trang sách. Như Giông tố chẳng hạn, biết bao nhân vật sinh sống trên nhiều vùng đất khác nhau, thành phần xã hội và số phận khác nhau, cứ đan chéo vào nhau, đâm sầm vào nhau, huých đạp lẫn nhau, tạo nên bao cảnh lên voi xuống chó, xuống chó lại lên voi, đay tính bi hài…

Không nên hiểu khái quát tổng hợp ở đây là cứ theo dòng tự sự đơn tuyến, lần lượt miêu tả, thuật kể vùng đất này rồi vùng đất khác, cảnh ngộ này rồi cảnh ngộ khác, loại người này rồi hạng người khác một cách rời rạc. Đầu thế kỷ XX, ông Trọng Khiêm đã viết một cuốn tiểu thuyết dày dặn theo lối ấy (Kim Anh lệ sử). Tác phẩm cũng có đủ cả miền xuôi, miền ngược, nông thôn, thành thị, cũng có đủ mọi hạng người trong xã hội thời bấy giờ. Tất cả được lần lượt ngoắc nối vào nhau, xâu chuỗi vào nhau một cách thiếu tự nhiên bằng cuộc đời phiêu lưu, chìm nổi của một cô gái tên là Kim Anh.

Vũ Trọng Phụng không làm như thế. Ông sáng tao ra một xã hội hẳn hoi, vận hành theo qui luật nội tại của nó. Những số phận cá nhân có vẻ rất ngẫu nhiên, như là do vận may vận rủi bầy ra như vậy, kỳ thực đều bị chi phối bởi những qui luật tất yếu và nghiệt ngã của xã hội một thời. Khái niệm “Sức mạnh tưởng tượng tổng hợp” (puissance d’imagination synthétique) tôi mượn của Lanson, một nhà nghiên cứu văn học Pháp, khi ông đánh giá tiểu thuyết của H. Balzac. Balzac và Vũ Trọng Phụng quả là hai cây bút có sức mạnh tưởng tượng tổng hợp phi thường.

4. Số đỏ và nghệ thuật trào phúng

Trong lịch sử văn học nước ta (và của thế giới có lẽ cũng vậy), xem ra những tài năng trào phúng tầm cỡ lớn không nhiều. Nói riêng về thơ, có thể điểm danh hàng chục nhà thơ trữ tình lớn không khó khăn gì. Nhưng nhà thơ trào phúng cỡ Hồ Xuân Hương, Tú Xương có được bao nhiêu? Nhà tiểu thuyết trào phúng lớn cũng rất hiếm, có lẽ không đếm đủ trên năm đầu ngón tay.

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, về tài năng trào phúng, phải thừa nhận Vũ Trọng Phụng là cây bút số một, một bậc thầy về nghệ thuật châm biếm hài hước. Cho nên Số đỏ là tác phẩm thật quý hiếm. Nguyễn Khải bái phục là phải: Số đỏ là “một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”(3).

Từ Số đỏ, có thể rút ra được những bài học gì về nghệ thuật trào phúng?

a. Tôi có được đọc một bài tiểu luận bàn về tiếng cười (Le Rire) của một nhà triết học Pháp (H. Bergson). Luận điểm của ông có thể tóm tắt như sau: Ai là người biết cười? Trả lời: Chỉ có con người. Con người có trí tuệ nên mới biết cười (người trí tuệ kém phát triển, đầu óc trì độn, nói chung, không biết đùa, không biết cười) và Ai là đối tượng đáng cười? Trả lời: Cũng chỉ có con người. Thiên nhiên, loài vật sống rất tự nhiên, chẳng có gì đáng cười ca. Chỉ con người mới hay có những hành vi vô nghĩa lý, thiếu tự nhiên làm bật cười. Bergson gọi là bị đồ vật hoá, máy móc hoá, như con rối. Số đỏ đã khai thác triệt để thủ pháp này. Cứ xem những con vật, như con chó, con mèo, chúng hoạt động rất tự nhiên: đói thì ăn, khát thì uống, thấy chuột thì vồ, buồn ngủ thì ngủ… Làm gì cũng có mục đích, có lý cả. Còn nhân vật Số đỏ thì ăn nói, cử động rất vô nghĩa lý, cứ như những cái máy vô hồn vặn sẵn dây cót: Thằng Xuân gặp ai cũng cúi đầu rất thấp: “Chúng tôi rất hân hạnh”, rồi xổ ra một tràng những câu thuộc lòng như con vẹt: “Hạnh phúc có gì khác nếu không phải là hạnh phúc vợ chồng?” “Cái gì hủ lau ta đào thải đi!” “Thể thao… nòi giống…”. Cụ cố Hồng thì tuy chẳng biết gì cả, nhưng động mở miệng là “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!”. Những nhân vật khác, từ mụ Phó Đoan, Minđơ, Mintoa, đến Cậu Phước “em chã” đều được xây dựng theo lối ấy…

b. Nói chung truyện cười cho phép sử dụng thủ pháp phóng đại một cách thoải mái. Thường ngày, đùa vui với nhau, ta cũng phải phóng đại mới có thể gây cười. Nhưng phóng đại đến đâu, đến mức độ nào thì vừa gây được tiếng cười, vừa đảm bảo được tính chân thực của chủ nghĩa hiện thực? Cảm nhận được chính xác cái độ thoả đáng, cái độ tối ưu ấy, là tài năng của những nhà trào phúng lớn. Phóng đại chưa đến cái độ ấy thì chưa đủ gây cười. Nhưng phóng đại quá cái ngưỡng ấy thì tác phẩm mất tính chân thật, người đọc không tin là có thật, và như thế là nguyên tắc phản ánh của chủ nghĩa hiện thực bị vi phạm.

Nguyễn Công Hoan cũng là một cây bút trào phúng tài năng. Nhưng trong nhiều trường hợp, ông đã phóng đại quá mức. Tác phẩm mất tính chân thật, mất sức thuyết phục.

Lấy một ví dụ: Truyện “Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn”. Chủ đề: phê phán sự hư hỏng của phụ nữ. Một bà phán nọ, chồng vừa chết, đã bồ bịch luôn với một ông phán khác bạn của chồng.

- Bước phóng đại thứ nhất: Họ tình tự với nhau ngay cạnh bàn thờ ông Phán quá cố (thiếu gì nơi tình tự mà phải ngồi với bồ ngay cạnh bàn thờ của chồng! Sự phóng đại đã bắt đầu vượt ngưỡng).

- Bước phóng đại thứ hai: Bỗng ông Phán nhân tình cảm thấy nóng bức quá. Bà vợ goá bèn gỡ luôn cái ảnh của chồng trên bàn thờ cho ông bồ quạt (sự phóng đại hết sức vô lý, thiếu gì cái có thể dùng thay quạt tốt hơn mà phải lấy đến cái ảnh của chồng!)

- Bước phóng đại thứ ba: quạt chán, ông Phán nhân tình quăng cái ảnh lên bàn nước, khiến mặt chồng bà Phán trong ảnh phồng rộp lên…

Nguyễn Công Hoan mắc rất nặng tư tưởng bảo thủ phong kiến, nhất là chung quanh vấn đề hôn nhân, gia đình, vấn đề phụ nữ. Viết về đề tài này, ông không kiềm chế được thái độ ác cảm với những phụ nữ muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của lễ giáo phong kiến. Trong những trường hợp như thế, Nguyễn Công Hoan không còn là một văn sĩ xã hội tiến bộ, không còn là cây bút hiện thực chủ nghĩa nữa.

Số đỏ của Vũ Trọng Phụng không mắc khuyết điểm đó. Thoạt xem tác phẩm này, ta tưởng như sự phóng đại của tác giả còn tuỳ tiện, phóng túng hơn cả Nguyễn Công Hoan: một thằng ma cà bong vô học mà trở thành đốc tờ bác sĩ, triết gia, thi sĩ, anh hùng cứu quốc; một mụ me Tây đại dâm ô mà được sắc ban Tiết hạnh khả phong v.v… Nhưng hãy gấp quyển sách lại và nhìn ra cuộc đời thực mà xem: té ra không thiếu gì những thằng Xuân tóc đỏ có thực, không thiếu gì những mụ Phó đoan bằng xương bằng thịt… Hoá ra, Vũ Trọng Phụng chẳng nói oan nói ức cho thằng nào, con nào cả. Thiên tài của tác giả Số đỏ là ở chỗ ấy: cảm nhận được và dừng lại đúng cái ngưỡng tối ưu của sự phóng đại, để tạo ra những nhân vật rất chân thật, những điển hình hiện thực chủ nghĩa bất hủ.

c. Về nghệ thuật trào phóng, trong một bài viết về thơ Tú Mỡ, Xuân Diệu phân biệt hai khái niệm “chửi địch” và “đánh địch”. Tất nhiên chỉ là cách diễn đạt có tính ước lệ mà thôi. “Chửi địch” là trực tiếp thoá mạ đối tượng bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu và các thủ pháp này khác. “Đánh địch” là dựng đối tượng lên thành nhân vật sống động, có tính cách, cá tính thật sự, để tự nó dở những trò lố bịch mà chuốc lấy tiếng cười của thiên hạ. Nghệ thuật “đánh địch” tất nhiên là cao cường hơn. Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan thiên về “chửi địch”. Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Vũ Trọng Phụng thiên về “đánh địch”.

5. Tiểu thuyết và thời sự. Nguyên mẫu và nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng

Đọc Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, thấy Vũ Trọng Phụng có khả năng đưa thẳng không khí thời sự và các sư kiện chính trị, xã hội, văn hoá còn nóng hổi tính thời sự vào tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết mà cứ muốn chạy đua với bút ký, phóng sự và thông tin báo chí. Tôi có đọc một số báo hàng ngày xuất bản cùng thời với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, thấy có những tin tức tương tự như trong tiểu thuyết của Vũ. Chẳng hạn tờ báo nọ đưa tin bà Bé Tý (một me Tây cao cấp) đến sở cẩm xin tha cho một thanh niên phạm một tội gì đó. Trong tiểu thuyết Số đỏ, bà Phó Đoan cũng đến bóp cảnh sát xin tha cho thằng Xuân phạm tội nhòm trộm một cô đầm thay váy. Lại có báo đăng tin một du học sinh mới ở Pháp về, không kiếm được một bằng cấp gì, nên rất khinh bỉ văn bằng. Thì trong Số đỏ, nhân vật Văn Minh cũng đúng như thế. “Anh ta dõng dạc giảng cho ông bố ngu si, chậm hiểu của mình: “Học thức không ở văn bằng. Những người như Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh, mà khảo đến bằng, thì thành ra vô học hay sao?” v.v…

Nhiều người sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng, nói rằng, đọc Giông tố, Số đỏ, có thể chỉ ra được những người thật trong xã hội đương thời mà Vũ muốn ám chỉ. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, có hai cây bút rất hay dùng nguyên mẫu để xây dựng nhân vật của mình: Nam Cao và Vũ Trọng Phụng. Tôi đã từng hướng dẫn một sinh viên cao học làm luận văn, đề tài: “Từ nguyên mẫu đến nhân vật truyện của Nam Cao”. Chúng tôi đã về làng Đại Hoàng của nhà văn để tìm tư liệu. Hầu hết nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn đều có nguyên mẫu. Cụ Nguyễn Lương Ngọc, nhà lý luận, phê bình văn học sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng cũng nói như vậy về các nhân vật trong Giông tố, Số đỏ. Tôi nghĩ giá có ai đó chịu khó tìm tòi để biết được những nguyên mẫu các nhân vật của Vũ Trọng Phụng thì hẳn là rất thú vị. Từ đó, có thể xây dựng được một luận văn vừa có giá trị khoa học vừa hết sức hấp dẫn. So sánh nguyên mẫu với nhân vật truyện, có thể phát hiện ra những phương thức chế biến, hư cấu đầy sáng tạo của nhà văn. Từ gã Chí Phèo - nguyên mẫu (chỉ là một anh đồ te say rượu bét nhè, chửi trời chửi đất lung tung), Nam Cao đã sáng tạo ra một Chí Phèo - nhân vật văn học bất hủ.

Nhưng tìm hiểu nguyên mẫu của các nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng hẳn là không dễ chút nào. Vì khác vơi nguyên mẫu các nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn, chủ yếu tập trung ở một làng Đại Hoàng, nguyên mẫu nhân vật trong Giông tố, Số đỏ quá đông đúc và phức tạp, gồm đủ các hạng người, lại có mặt ở nhiều môi trường xã hội, ở nhiều vùng đất khác nhau, hầu như trên cả nước.


Người ta đã viết nhiều, nghiên cứu nhiều, khám phá nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Mấy năm gần đây, có hàng chục luận văn thạc sĩ, tiến sĩ viết về nhà văn này. Vậy mà cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn chưa thôi đặt ra những câu hỏi chưa được giải đáp thấu đáo để tiếp tục làm cho các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học phải động não.

Mới biết, những cây bút lớn, những tác phẩm đỉnh cao, chẳng những là những đóng góp làm vẻ vang cho truyền thống nghệ thuật dân tộc, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng phong phú của khoa học văn chương.


Láng Hạ, 3/11/2009
N.Đ.M
(250/12-09)

--------------------------
(1) Xem “Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta”. Trần Hữu Tá biên soạn - Nxb TP Hồ Chí Minh. 1999. Đọc các bài của Nguyễn Đình Thi (Nhà văn với quần chúng lao động); Hoàng Văn Hoan (Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam); Vũ Đức Phúc (Vũ Trọng Phụng - nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu)
(2) Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải cũng có khả năng tương tự. Nguyễn Tuân chưa lên Tản Viên Ba Vì bao giờ mà viết “Trên đỉnh non Tản” rất đúng. Trong kháng chiến, ông mới có dịp tới ngọn núi ấy và thấy “Sao mình giỏi quá vậy?”. Nguyễn Khải ở ngoài Bắc mà tả “Hòa Vang” chiến đấu chống Mỹ nguỵ như thật. Anh chỉ nghe một nhà tình báo cao cấp thuật kể mà viết về những bộ trưởng, thượng nghị sĩ… thuộc chính quyền Sài Gòn cũ như là thông thạo lắm (kịch Cách mạng và tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm)
(3) Tham luận tại Đại hội nhà văn lần thứ 3 (9-1983)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.