Mây mưa lỡ hội

09:31 10/11/2009
HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Lúc bấy giờ, Pháp tấn công triều đình Nguyễn. Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở. Vua thảo chiếu Cần Vương. Chiếu có đoạn: "... Người trí hiến mưu, kẻ dũng hiến sức, ai giàu có bỏ của ra giúp quân nhu, đồng bào đồng trạch chẳng từ gian hiểm..." Nắm được địa thế quan trọng của Quảng Nam, trước ngày động binh đánh Pháp, Tôn Thất Thuyết cho chuyển vào sơn phòng Quảng Nam rất nhiều lương thực và vàng bạc. Sau khi thất bại, Thuyết hộ giá ra Tân Sở. Biết được ý đồ của Thuyết nên nhiếp chính đương thời là Thọ Xuân vương Miên Định, Từ Dũ và Nguyễn Văn Tường cho đòi Chánh sứ sơn phòng Tiến sĩ Trần Văn Dư "thủ lộ lai kinh". Trần Văn Dư trả lời khẳng khái bằng chữ "bất" ghi thẳng vào chỉ dụ. Do thiếu cảnh giác nên họ Trần bị tên Châu Đình Kế chỉ điểm cho quân Pháp hạ sát vào ngày mồng 8 tháng 11 năm Ất Dậu ở ngay thành tỉnh. Chuyện kể rằng sau khi Trần Văn Dư bị bắn, Nghĩa hội muốn tìm một lãnh tụ mới nhưng chưa biết nên tiến cử ai. Những thân hào bèn khiêng kiệu đến đứng chờ dưới thành. Khi đó phó bảng Nguyễn Duy Hiệu từ thành cao nhảy xuống đúng ngay vào kiệu. Thế là Nguyễn Duy Hiệu được tôn xưng làm lãnh tụ Nghĩa hội. Sau khi được tôn xưng, Nguyễn Duy Hiệu ngược sông Thu Bồn lên lập căn cứ Tân Tỉnh tại Trung Lộc. Ông được vua Hàm Nghi sắc phong "Binh bộ tả tham tri, sung tham tán quân vụ đại thần, kiêm lý Nam Ngãi tổng đốc". Hội chủ cho lập trang miếu bằng tranh tại Trung Lộc Tây, đem 150 bài vị lên thờ. Trong thánh miếu còn có ngai vàng bằng gỗ, tượng trưng cho quyền lực nhà vua, xung quanh văn miếu, thánh miếu cách xa hàng dặm đều có các trạm canh phòng cẩn mật. Hành tung của hội chủ biến ảo khôn lường.

Chuyện truyền đời của dòng họ Nguyễn

Ông tiền hiền họ Nguyễn là Nguyễn Hữu Trung, một người thông làu sử sách. Từ ngày lên đất Trung Lộc Trung chỉ chí thú làm ăn, không mơ màng gì đến thời cuộc. Riêng có một nỗi đam mê kỳ lạ đối với hát tuồng. Gánh hát nào, diễn ở đâu Trung cũng tìm cho ra và xin thủ một vai cho kỳ được. Sau này nhiều người kể Trung ra tuồng như có ma nhập. Lúc thì mềm như liễu, lúc thì cứng như đá, lúc dồn dập như gió mưa.

Hôm ấy là một ngày xuân. Gánh hát của Khánh Thọ từ Hà Đông ra nghỉ đêm tại Trung Phước. Ông Khánh Thọ cho người vô mời Nguyễn Hữu Trung ra uống rượu. Cuộc rượu sắp tàn ông mới ghé tai rỉ chuyện. Hẳn là một câu chuyện bí mật nên hôm sau Trung bảo lên Bình Yên có việc gấp. Ở làng Bình Yên hôm ấy nhộn nhịp chưa từng có trong đời. Sau những chiến thắng gần đây, Nghĩa hội mở tiệc khao quân và mời gánh tuồng của Khánh Thọ lên hát hiến. Sân khấu tuy tạm bợ nhưng cũng nổi bật lên hai câu ghi bằng vôi trên vuông vải điều: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng".

Quan quân rượu thịt ngả nghê hồi trống khai trường mới vang lên. Dưới sân khấu, tay chầu là một người có dung mạo tuấn tú dị thường: Nước da trắng, đôi mắt đen bình tĩnh. Nguyễn Hữu Trung vào vai một võ tướng. Lúc lâm trận, người võ tướng ấy một mình một ngựa dương đông kích tây: đi vào giữa ba quân mà như ở chốn không người. Tiền xu thưởng từ dưới đất bay lên rào rào như mưa. Người cầm chầu gõ trống khích lệ liên hồi. Đột nhiên, đến đoạn cao trào, có lẽ một phần do ngấm rượu, một phần do kiệt sức nên tiếng thét khí thế giữa sa trường đang vút lên chợt đứt quãng. Từ cổ họng vị võ tướng chỉ phát ra những âm thanh rè rè vô nghĩa. Sân khấu đang sôi động phút chốc bỗng im lìm như nước đóng băng. Bá quan văn võ và dân chúng lặng ngắt như tờ. Chỉ có người cầm roi chầu quắc mắt lên. Một cơn giận dữ khủng khiếp đang chạy giần giật trên từng cơ mặt. Đôi vai người ấy run bần bật, vầng trán rộng nhăn nhó lại đến thảm hại. Roi chầu trên tay cất cao lên. Một cú kết thúc như trời giáng đổ hết xuống tang trống. Một tiếng va chạm mạnh giữa mộc và mộc đanh lại, ngắn gọn khô khan đến nhói tai. Người người ôm mặt sợ hãi. Vị võ tướng trên sân khấu buông rơi kiếm sắc, mặt xanh rớt như tàu lá chuối và đổ ụp xuống sàn diễn như cây gặp bão.

Mấy ngày sau, có người bà con ở làng Bình Yên đưa thuyền chở Nguyễn Hữu Trung về nhà trong tình trạng mê man bất tỉnh. Phải mất ba tháng ròng chăm sóc Trung mới hồi dương. Nhưng nghiệt ngã thay cho cái sự tài hoa phát tiết không đúng nơi. Từ đấy người diễn tuồng nổi tiếng kia đã câm hẳn. Một sự câm nặng nề, đớn đau không thể nào tả hết.

Dường như số mệnh đã đè lên vai người diễn viên tài hoa ấy một sự oan nghiệt kinh hồn. Nếu như không có cái đêm hát khao quân? Nếu như không có vài chén rượu trước đêm hát? Nếu như không có người cầm roi chầu có đôi mắt đen sâu? Hết thảy là một thứ định mệnh được bày biện sẵn cho số phận cuộc đời mỗi người!

Sau cái đận ấy, gia đình họ Nguyễn lại chuyển về quê cũ ở Hương Ly.

Hai người đàn ông bán chiếu

Một đêm gió mưa tháng 8 năm Đinh Hợi, có hai người đàn ông bán chiếu dạo gõ cửa nhà Nguyễn Hữu Trung xin ngủ nhờ qua đêm. Con cả Nguyễn Hữu Trung là Nguyễn Hữu Nhân ra mở cửa. Cả hai người khách đều trạc tuổi bốn mươi. Một người có dung mạo tuấn tú dị thường: nước da trắng, đôi mắt đen và sâu. Thoạt nhìn, Nguyễn Hữu Trung tái mặt. Buổi tối sau khi cơm nước xong, Trung đuổi hết người nhà xuống bếp. Câu chuyện giữa hai bên chủ khách bắt đầu và người con cả là chứng nhân duy nhất của cuộc trò chuyện có một không hai này. Nguyễn Hữu Trung sai người mài mực, mang giấy dó ra. Câu hỏi đầu tiên được ghi trên giấy:

- Hẳn ngài còn nhớ đêm hát khao quân ở Bình Yên mà tôi là người thủ vai võ tướng?

Một chút nhíu mày, người có đôi mắt đen sâu chợt lục lọi lại ký ức và nhớ ra:

- À, có nhớ, có nhớ! Hóa ra lại là ông!

- Vâng, Tôi đây! Tôi nhận ra ngài từ lúc ngài vừa gõ cửa. Tôi biết, thế nào rồi ngài cũng phải có ngày này. Tôi khâm phục lòng yêu nghề của ngài. Những thứ ấy hạng chúng tôi không có. Hoặc nếu có thì chúng tôi cũng không đủ can đảm theo nghề. Chúng tôi chỉ biết miếng cơm manh áo. Ngoài những thứ đó ra chúng tôi chỉ có niềm vui duy nhất là diễn tuồng. Vậy mà, số phận lại xui tôi gặp ông. Ngọn roi chầu nghiệt ngã của ông đêm đó đã cướp mất giọng hát của tôi. Bây giờ, cuộc đời tôi coi như bỏ đi. Sống mà không nói năng hát ca được thì coi như đã chết rồi...

Người đàn ông mắt đen sâu mím môi ra chiều ân hận. Trung tiếp:

- Tôi biết ngài là người có lòng. Biết ngay từ buổi gặp ở Bình Yên. Nhìn nét chữ viết trên tấm vải điều giữa sân khấu hôm ấy tôi cũng biết chữ viết đấy là của ngài. Nhưng, ở cuộc đời này có lòng không chưa đủ. Nhìn ngài cầm chầu tôi cũng biết tài nghệ của ngài. Roi chầu có thưởng có phạt công tâm. Nhưng ngài ạ, sự đời thưởng nhiều quá thì sinh nhờn mặt, huênh hoang. Phạt nặng quá thì sinh oán hận. Cái gốc là biết thưởng biết phạt thời khắc nào đối với con người nào. cũng như roi chầu mà ngài phạt tôi hôm đó tôi chấp nhận nhưng quá nghiệt ngã. Ngài cầm chầu giỏi bao giờ cũng biết mở một con đường cho người kép biến hóa mà chuộc tội chứ? Cũng như người cầm binh, phải biết mở đường máu cho bại binh. Tôi nói điều này không phải cho cá nhân tôi mà cho đám đông. Ngài, chắc ngài nhớ câu này chứ: "Khuyên những kẻ sống còn nợ Hớn, ra mà chinh Mạnh Hoạch lúc thất cầm".

Người đàn ông mắt đen sâu lại mím môi tỏ vẻ ân hận. Trung lại tiếp:

- Tôi biết ngài. Ngài là cây tùng, cây bách tiết hàn đông. Ngài thay cả đế vương chinh phạt bọn sài lang nghịch đạo lừng lẫy cả một góc trời. Song lúc thịnh, ngài dùng kế "thiên quân yểm noãn", lúc suy ngài biết dựa vào cái gì đây? Đời người, thế sự, phàm như mặt trăng, hữu viên hữu khuyết. Ngài có tiên đoán vận mệnh của ngài và của thời cuộc như bây giờ không? Lúc trước, thế đang thịnh, quanh ngài biết bao nhiêu người tài giỏi. Nhưng phàm người tài thì sinh tật. Hoặc tham quyền tiếm vị, hoặc tửu sắc đam mê, hoặc thế này thế kia. Ngài thuộc sách thánh hiền sao ngài không dùng đức kế của Khổng Minh mà bắt họ qui phục? Quyền sinh quyền sát trong tay sao ngài không mở đường sống cho  bọn họ? Sát hại người hết thì ngài sống với ai? Ở đời, chỉ có bọn bất tài vô tướng mới xu nịnh. Lời nói ngọt là lời nói tẩm thuốc độc. Câu khen hay là câu nói có gắn cung tên. Ngài nghe bọn xu nịnh vuốt ve, nhưng lúc đấy ngài đâu hay ngài đang chết dần dần?


Người đàn ông mắt đen sâu lại mím môi tỏ vẻ ân hận. Nguyễn Hữu Trung lại tiếp tục cật vấn người có đôi mắt đen sâu. Càng nói ông càng hăng. Bao nhiêu uất ức tâm sự của một người không nói được chỉ chực tràn ra trong đêm nay. Bỗng nhiên từ trong đôi mắt sâu thẳm của người đàn ông lạ một giọt nước mắt chảy ra. Giọt nước mắt đỏ chói và lóng lánh như viên hồng ngọc chảy đến ngang gò má thì dừng lại và biến mất. Người đàn ông đi cùng với nãy giờ ngồi chăm chú lắng nghe. Để ý con người này rất kiệm lời. Bên mình người này luôn luôn kè kè một quả bầu khô. Dường như là bầu rượu(?)

Câu chuyện giữa hai người bán chiếu và một người câm kéo dài thâu đêm. Trong suốt câu chuyện, người đàn ông mắt đen sâu và người kia chăm chú lắng nghe. Họ tỏ vẻ ân hận. Cả hai trầm ngâm, căng thẳng. Nhưng trên khuôn mặt của họ bao giờ cũng toát lên nét cương nghị. Chồng giấy dó đặt trên bàn gỗ đã đầy ắp. Trên mỗi vuông giấy là một là một lời đanh thép.

Sáng ra, bão tan. Trung sai người nấu cơm nếp đùm làm hai bọc. Trong nhà còn bao nhiêu tiền ông vét hết đưa cho hai người đàn ông kia để đổi lấy một chiếc chiếu hoa. Mờ đất, ông tiễn khách ra tận ngõ và quì lạy người mắt đen sâu cả một ngàn lạy. Rồi ông lạy người đi cùng trăm lạy mới thôi. Trước lúc chia tay, người có đôi mắt đen sâu chép tặng Trung một bài thơ như thế này:

Quan thành nhựt mộ thính xuy già
Bạch phát thôi nhân cảm tuế hoa
Kỷ độ gian nan cam dữ quốc
Nhứt thân sinh tử bất tri gia
Giao long chỉ hận vô vân vũ
Hồng lạc hà thời khởi trảo nha
Mại kiếm mãi ngưu tàm Bột hải
Na kham thiên mạng tảo trần sa

Xin nhắc lại bây giờ là tháng tám năm Đinh Hợi - tức năm 1887.

Thay lời kết

Hai người đàn ông ra đến rìa làng thì dừng lại trên một quả đồi. Người có đôi mắt đen bình tĩnh bảo người kia trút bỏ gánh chiếu xuống đất. Họ lôi từ trong ruột chiếu ra một mớ giấy tờ và châm lửa đốt. Họ đốt tất cả những gì đốt được, trừ bầu rượu (?) mà một người đi theo luôn mang bên mình. Đốt xong, hai người ung dung bước đi. Thậm chí vừa đi vừa ngâm nga. Họ nhắm hướng sông Trường Giang mà đi tới.

Sau này, một trong hai người đã tự vẫn bằng thuốc độc mang theo trong trái bầu. Lời minh trên bia mộ người này có ghi: "Thời quai lực kiệt, sát thân thành nhân".

Không ngờ, cái đêm mưa bão ấy hai cha con ông Nguyễn Hữu Trung và Nguyễn Hữu Nhân là người cuối cùng gặp được phó bảng Nguyễn Duy Hiệu khi rời khỏi Tân Tỉnh. Sau này khi Phan Bá Phiến tự vẫn chết, Nguyễn Duy Hiệu theo sông Trường Giang về lại Thanh Hà, mảnh đất cố hương, viếng bàn thờ mẹ rồi ra miếu Quan Công ngồi xếp bằng nộp mình cho Nguyễn Thân. Sử sách có ghi sự kiện này... Riêng câu chuyện gặp cha con nhà họ Nguyễn là chuyện lưu truyền trong dân gian nên có thể bị người đời thêm bớt. Bản chất sự việc thì vậy nhưng tình tiết trong câu chuyện trên cũng mờ mờ ảo ảo trong sử sách! Có nên tin cậy chăng?

H.N.H
(129/11-1999)


----------------------------------------------------
Trong truyện ngắn này tác giả có sử dụng một số tư liệu của Nguyễn Sinh Duy trong cuốn "Phong trào Nghĩa hội Quảng Nam".




 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.

  • Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.

  • Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.

  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.