PHẠM PHÚ PHONG
Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.
Nay sách đã được in ra, được bạn đọc cả nước chào đón, tôi thấy cần phải nói thêm đôi điều.
"Tại sao anh lại không phải là con người tốt?" (tr. 236). Câu trách móc xót xa của Thư nói với Vĩnh được chọn làm đề từ cho tác phẩm, là ý tưởng xuyên suốt câu chuyện, bắt đầu từ huyền thoại dân gian về một chàng trai thác cuộc đời mình vào mục tiêu đi tìm "chiếc nhẫn của thần hạnh phúc ở phía chân trời xa xôi kia", nhưng vì chỉ một phút lo cho cá nhân, buông lơi điều "tâm niệm nghĩ đến xóm làng trơ trụi" (tr. 29-30), mà phải trả giá bằng sự nhận lãnh tai họa bi thảm. Với gần ba trăm trang sách, Phía ấy là chân trời là chuyện tình đau đớn đến tuyệt vọng của một đôi trai gái trên vùng biển đầy bão lửa tai ương - một thế hệ tuổi trẻ không yên buộc phải can dự vào cuộc chiến tranh vô tiền khoáng hậu. Có thể nói rằng, qua cái logic phổ biến của một câu chuyện tình yêu trong thời buổi chiến chinh,Tô Nhuận Vỹ đã lý giải được bước sa ngã và con đường đi đến cái ác, trở thành kẻ phản bội của Vĩnh.
Chiến tranh đã đưa đẩy hai con người có hoàn cảnh giống nhau (mồ côi cả cha lẫn mẹ) từ vùng biển khu Ba Phú Lộc vừa "mất an ninh" trôi giạt về cửa Thuận. Từ đây, Thư đã neo cuộc đời mình vào lý tưởng cao đẹp của cách mạng, trở thành ước vọng cháy bỏng ở phía chân trời kia mà Vĩnh không thể nào với tới được. Anh lùi dần, lùi dần và trượt dài trên bề mặt của cuộc đời; từ việc bỏ học đi làm kiếm tiền cho ngày cưới và cũng chính vì món tiền ấy mà anh ngập ngừng quay lui rồi hụt hẫng rơi vào vực thẳm: đi làm sở Mỹ, vào học ở Vũng Tàu trở thành tên biệt kích Mỹ dẫn quân lên rừng đánh phá các căn cứ tiền phương của cách mạng, bọn vượt biên... Từng bước lún sâu vào vũng lầy của tội ác của Vĩnh đều vì Thư, đều có lý cả, "nhưng cộng tất cả những cái lý ấy lại thì ra một tổng số vô lý lớn lao: anh không phải là con người tốt" (tr. 236). Nhân chi sơ tính bổn thiện. Cái tài của người viết là luôn giữ cho nhân vật đứng bên bờ của cái thiện, giữ cái bản chất tốt "Nhân chi sơ", nhưng việc làm của anh ta là xấu, là hèn nhát, là cái ác... tất cả đều như trò đùa trớ trêu của lịch sử chiến tranh và số phận của con người: cần phải nhận thức lịch sử trong con người để có thái độ đúng đắn đối với từng con người trong lịch sử, dưới sự tác động không mấy bình thường của chiến tranh. Từ trong bản chất, con người luôn khao khát vươn tới những gì tốt đẹp, nhưng không bao giờ nắm bắt được một cách trọn vẹn, như là cái chân trời xa thẳm kia, đi hoài mà không tới được. Thành công đáng ghi nhận của Tô Nhuận Vỹ không phải là ở việc chỉ ra được phía ấy là chân trời, là chiến khu, là cách mạng, là Thư và cái lý tưởng đẹp đẽ cô đang theo đuổi; mà là ở việc anh lý giải một cách rõ ràng sự nhất quán của một tính cách phi logic, cái logic của sự phi logic diễn ra trong thế giới nội tâm đầy phức tạp và biến đổi của một con người. Đó là hạt nhân cơ bản làm tư tưởng luận đề cho cuốn tiểu thuyết.
Vĩnh là con người trái với sự phân định rạch ròi các phạm trù phẩm chất, một sự đối chọi dễ thấy lâu nay: trắng đen, nóng lạnh. Vĩnh đứng ở sắc độ trung gian, một sự hòa lẫn âm thầm, kín đáo mà mạnh mẽ. Ngược lại, Thư - cột neo lưu giữ, phần tốt trong con người Vĩnh và cũng là nguyên cớ tạo ra bước sa chân của Vĩnh - lại là con người tốt ròng, là sự sáng trong, trung thực, luôn bảo vệ những nguyên tắc đạo đức chuẩn mực đến độ khắc kỷ. Cô là "người con gái còn trẻ, nhưng thử thách cuộc đời đã khiến cô mất hẳn tính bồng bột, như đã bao lần, cô hiểu rằng trong vòng tay cô không chỉ là một trái tim mà cả một cuộc đời" (tr. 17). Cô là cái chân trời xa thẳm thành đường viền thẳng tắp ngoài kia, trên đó có đính những điểm sáng lấp lánh, là chân lý, là đại biểu cho phần tốt trong mỗi con người, nơi Vĩnh luôn hướng về với một tình yêu cháy bỏng, tha thiết đến vô bờ. Sớm có ý thức căm thù giặc, cô lao về phía nhân dân, phía chân trời cách mạng, sau ngày miền Nam giải phóng cô trở về làm phó chủ tịch xã kiêm hiệu trưởng trường cơ sở, thì người cô yêu dấu đã lún sâu vào tội lỗi không thể kéo chân lên được. Sự ổn định trong tính cách của Thư là nền tảng cho sự phát triển đa chiều của ý tưởng, nơi giao thoa của các tín hiện thẩm mỹ, song lại gợi nên sự khô khan, thiếu đi sự dịu dàng tươi mát của một thiếu nữ đang yêu, dáng dấp mà ta đã gặp ở Mẫn (Mẫn và tôi) của Phan Tứ, ở Cúc (Miền cháy và Những người đi từ trong rừng ra) của Nguyễn Minh Châu và nhiều người khác nữa. Đã có lần nhà văn tỏ ra không đồng tình với nhận định nầy, bởi lẽ nhân vật có đời sống riêng tương đối độc lập, nhà văn không có quyền buộc nhân vật phải như thế nầy hoặc như thế kia. Nhưng ý đồ sáng tạo và quyền lực chủ quan của người viết là một việc, còn hiệu ứng thẩm mỹ đối với người đọc lại là một việc khác; cái tài của nhà văn là ở chỗ làm sao cho hai bình diện nầy trùng khít lên nhau, hoặc tạo được bình diện thứ hai (phía người đọc) lớn hơn bình diện thứ nhất; tham số càng lớn hơn bao nhiêu càng thành công bấy nhiêu.
Khác với tiểu thuyết sự kiện Dòng sông phẳng lặng (3 tập) trong các tiểu thuyết luận đề của Tô Nhuận Vỹ thường chỉ gói gọn không gian nghệ thuật trong một xóm chân đồi (Ngoại ô), một vùng cửa biển (Phía ấy là...) và chỉ thể hiện thông qua vài ba nhân vật - nơi chứa đựng những vấn đề trung tâm của tác phẩm. Hệ thống quan niệm đạo đức là tấm áo khoác của thời đại. Nếu những trang viết về chiến trường Tô Nhuận Vỹ xoay quanh chủ đề đạo đức ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng - người anh hùng là người mang lý tưởng thẩm mỹ - đạo đức nhất thời đại - thì giờ đây, con người với tất cả những biểu hiện phức tạp như nó vốn có là nhân vật trung tâm cần soi tỏ. Điểm mạnh của nhà văn là biết chọn lọc trong cái vốn sống đầy ắp của mình những chi tiết sinh động, khảm vào trong trường tư tưởng đã được kéo giản ra như một đường viền sáng rõ, để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật. Đối với người viết văn xuôi, không có chi tiết nào của đời sống mà không quan trọng. Được đặt đúng chỗ, mỗi chi tiết nhỏ đều có thể ánh lên vẻ sáng rực rỡ của một viên kim cương. Những trang miêu tả về sông nước, biển khơi, chuyện câu cá úc, cá đù... là những đặc tả giàu chi tiết có sức lôi cuốn người đọc.
Có người cho rằng những nhân vật thành công của Tô Nhuận Vỹ là những cán bộ như chị Hạnh, anh Thất, anh Hòa (Dòng sông phẳng lặng), ông Hãn, anh Thạch (Ngoại ô)... tôi cho rằng có thể gộp thêm cả Thư trong tiểu thuyết này nữa; là những con người được đúc theo một mẫu có sẵn, về tập hợp đứng chật trong sáng tác của nhiều nhà văn thế hệ chống Mỹ. Đóng góp riêng của Tô Nhuận Vỹ là ở nhân vật trung gian: Diệu Linh, Nguyễn Khoa Bảo, (Dòng sông...), Bửu Sanh, Huệ (Ngoại ô) và đến tiểu thuyết nầy là Vĩnh - trung úy biệt kích Mỹ, được người viết chọn làm nhân vật trung tâm của tác phẩm. Phía ấy là chân trời không chỉ là sự tiếp tục chủ đề về thái độ nhu nhược của người trí thức vùng tạm chiến ở Dòng sông phẳng lặng và Ngoại ô mà đi tận cùng chủ đề nầy là chặng đường sau của người trí thức miền Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là những con người đến với cách mạng phải trải qua con đường đau khổ, là thái độ tích cực của lớp trí thức trở thành những cán bộ xuất sắc như Thạch (Ngoại ô) hoặc tiêu cực, trở thành con người suy tưởng nhiều hơn là hành động. Hoặc giả anh nói tốt mà việc làm của anh thì xấu, anh nghĩ hay mà anh hành động lại dở (tr. 235). Những con người như vậy có tầm khái quát cho nhiều loại người trong đời sống chúng ta hôm nay, cần phải phê phán tận gốc rễ.
Ngoại ô hướng người ta một cách nhìn đúng đắn về nhân dân. Phía ấy là chân trời lại hướng cái nhìn tập trung hơn: một bộ phận nhân dân chới với giữa dòng của cuộc chiến, lỡ bước sa chân đến với kẻ thù, phải thức tỉnh, giành giựt lại, đừng đẩy họ ngày càng xa rời nhân dân.
Kết cấu của Phía ấy là chân trời so với Ngoại ô chưa có gì mới, chủ đề, nhân vật là sự đi tiếp, nhưng phải nói đây là bước khẳng định quan trọng dọc đường văn học của nhà văn. Người viết không chỉ dừng lại ở vốn sống nặng đầy bút pháp xác thực mà còn vươn lên tầm khái quát sắc sảo của một nhận thức thẩm mỹ chín nồng, một cách lập ngôn văn học xác tín đến mạnh mẽ, từng câu, từng chữ mang sức nặng của tâm huyết. Tôi tin rằng, khi viết quyển này, anh đã rút ruột mình ra, vắt kiệt cả những gì đã nếm trải, nên lần giở từng trang sách tôi mới có cảm giác trì kéo bởi sức nặng những trang đời. Điều quan trọng hơn, lần này anh lộ rõ tư tưởng chủ đạo thôi thúc nhà văn: làm sao để con người trở nên tốt hơn. Đó là nỗi ám ảnh sáng tạo, niềm day dứt khôn nguôi, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều tác phẩm (Dòng sông phẳng lặng, Ngoại ô, Gió vẫn thổi trên dòng sông) đến nay lại vang lên, trở thành niềm hữu thức đau đời: Tại sao anh không phải là con người tốt, con người lẽ ra phải tốt như nó vốn có?
Điều tôi xin nói thêm sau cùng là Tô Nhuận Vỹ cần phải tránh một nhược điểm không ít các nhà văn thường mắc phải là sự tự lặp lại chính mình. Sự tiếp tục ý tưởng của một hướng chủ đề không có nghĩa là quay lại với kết cấu cũ, dầu tầm khái quát có được nâng cao hơn, hoặc tạo dựng những anh em sinh đôi, sinh ba như kiểu mụ Lép và mụ Béo (Dòng sông phẳng lặng và Ngoại ô), cu Buồn và cu Ri (Ngoại ô và Phía ấy là chân trời)...
Với bút pháp xác thực và sắc sảo, đóng góp tích cực trên chặng đường hơn hai mươi năm cầm bút của Tô Nhuận Vỹ là tiêu biểu, đáng trân trọng. Năm nay anh đang ở độ tuổi chưa đến ngũ tuần, tôi tin rằng đối với một văn xuôi, ở tuổi này anh đang còn ở độ sung sức.
Huế, 11-1988
P.P.P
(SH37/05&06-89)
------------
(1) Tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ, Nxb Thuận Hóa, 1988.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.